Lắt léo chữ nghĩa: Nghĩa của một số “yếu tố láy” (*)

26/07/2020 06:39 GMT+7

49. Quất trong quanh quất: Quất là một hình vị gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [屈] mà âm Hán Việt hiện hành là khuất, có nghĩa là “cong lại, co lại”.

Từ khuất sang quất là chuyện bình thường, biết rằng chính chữ khuất [屈] lại dùng để hài thanh cho nhiều chữ quật, như: quật [倔] trong quật cường, quật [掘] trong khai quật, quật [窟] là “hang, ổ”...
50. Quít trong cuống quít: Quít là một hình vị gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [獝] mà âm Hán Việt hiện hành là huất, có nghĩa là “điên rồ”. Về tương quan phụ âm đầu giữa huất và quít, ta còn có trường hợp tương tự là: huyên [諼], không nhớ « quên trong lãng quên.
Về vần thì xin chú ý rằng IT là âm xưa của ÂT trong một số trường hợp, đặc biệt chữ nhất
[一] là “một”, cho đến giữa thế kỷ 17 vẫn còn đọc là nhít, như Alexandre de Rhodes đã ghi nhận trong Từ điển Việt Bồ La (Roma, 1651). Nhân tiện xin nói rằng chữ nhất [一] này, đúng theo phiên thiết, phải đọc là ất chứ không phải “nhất”. Thiết âm của nó trong Quảng vận là “ư tất thiết” [於悉切]. “Ư tất” thì phải là ất, mà âm xưa là ít. Đây cũng chính là chữ ít trong ít nhiều, đúng với một trong những cái nghĩa mà Quảng vận đã cho là “thiểu” [少] = ít.
51. Rạc trong rời rạc: Rạc là một hình vị gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [落], mà âm Hán Việt là lạc, có nghĩa là “rơi, rụng”. Tương quan L « R giữa lạc và rạc còn thể hiện ở những trường hợp khác:
- la [籮], đồ đựng làm bằng tre, đồ dùng bằng tre để sàng sảy « rá trong rổ rá; - lan [欄], chuồng nuôi thú « ràn trong ràn trâu; - lao [牢], nơi nhốt gia súc « rào trong hàng rào; - liệt [冽], rất lạnh « rét trong rét mướt; - lục [剹], tước (vỏ) « róc trong róc mía...
Mà thực ra thì cặp đôi rời rạc lại chính là điệp thức của ly lạc [離落] trong tiếng Hán, với nghĩa gốc là “xa lìa”.
52. Ràng trong rõ ràng và rỡ ràng: Ràng có mặt trong hai cấu trúc khác nhau (rõ ràng và rỡ ràng) với cùng một nội dung ngữ nghĩa. Vậy đó là một yếu tố có nghĩa. Đây là một hình vị gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [陽], mà âm Hán Việt hiện hành là dương nghĩa là “minh lượng” [明亮], tức sáng sủa.
Về quan hệ ƯƠNG « ANG, xin nói rằng đây là hiện tượng thường thấy trong lĩnh vực Hán Việt mà ngay chữ dương [陽] này đứng đầu cả một vận bộ (gồm 4 vận mục bình, thượng, khứ, nhập) thì đã có khứ thanh là vận mục dạng [漾] đọc theo vần ANG. Ngay trong vận mục dương [陽] thì một số chữ cũng đọc theo vần ANG: lang [蜋], thang [湯], sàng [牀], trang [莊]...
Về quan hệ D « R, ta có: - dũ [瘐] trong dũ tử [瘐死], vì đói rét mà chết trong nhà giam « rũ trong rũ tù; - dụ [誘], rủ rê « rù trong rù quến; - dương [烊], nướng trên lửa « rang trong rang cơm; - dưỡng [痒], ngứa ngáy « rượng trong rượng đực (thường viết thành “rượn”).
53. Rệt trong rõ rệt: Rệt là một hình vị gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [烈], mà âm Hán Việt hiện hành là liệt, có nghĩa là “sáng rực”. Tương quan L « R đã được chứng minh tại mục 51 (rạc trong rời rạc). Còn về IÊT « ÊT thì: - hiết [歇], thôi, ngừng « hết trong còn hết; - tiết [節] « tết trong lễ tết; - thiết [設] trong thiết đãi « thết trong thết tiệc.
(*): Tiếp theo bài Nghĩa của một số “yếu tố láy” trên Thanh Niên chủ nhật số ra ngày 19.7.2020
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.