Lỗ hổng tập đoàn, tổng công ty: “Bức tranh nợ” rất đáng báo động

03/06/2012 03:00 GMT+7

Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lên tới 10 lần, chứng tỏ khả năng trả nợ của các tập đoàn (TĐ) - tổng công ty (TCT) rất thấp. Vay nợ nhiều, đầu tư tràn lan quá mức, lại thiếu hiệu quả ắt dẫn tới thua lỗ. Đó là nhận định của Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển khi trả lời phỏng vấn của PV Thanh Niên .

Ông đánh giá như thế nào về con số nợ gấp 3-10 lần vốn chủ sở hữu tại các TĐ-TCT vừa được Bộ Tài chính công bố?

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển

Nhìn vào con số nợ của các TĐ-TCT đang nổi lên một vấn đề, đó là nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp (DN), vốn tự có chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong đó, nguồn vốn vay của ngân hàng và nguồn vốn chiếm dụng lẫn nhau cũng rất cao, cho thấy tình hình tài chính của rất nhiều DN trong các TĐ-TCT không lành mạnh. Do đó lợi nhuận lũy kế trên tổng tài sản không bằng một số thành phần kinh tế khác. Nói chung, với mức nợ lớn gấp 3 lần thì tình hình tài chính của TĐ-TCT đang ở mức phải cảnh báo, còn đến 10 lần rất đáng báo động.

Trong tổng dư nợ hơn 400.000 tỉ đồng của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), riêng TĐ-TCT chiếm hơn 200.000 tỉ đồng. Ông nhận định như thế nào về con số này?

Để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, ngoài tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu, chúng ta còn phải nhìn vào các chỉ số tài chính khác, nhưng điều đầu tiên có thể nhìn thấy là nguồn hình thành lên tài sản của DN rõ ràng chủ yếu do vốn đi vay, chiếm tỷ lệ tương đối cao. Trong khi đó, lãi suất (LS) vay lại không ổn định, ví dụ ban đầu DN lập phương án đầu tư LS chỉ 12%/năm, nhưng đến lúc triển khai lên tới hơn 20%/năm, dẫn tới gánh nặng chi phí quá lớn. Theo đánh giá gần đây, yếu tố LS chiếm tỷ lệ rất cao trong chi phí kinh doanh của DN, vì vậy, khi DN chịu sức ép LS đồng nghĩa với khả năng thua lỗ lớn. Nhưng nguy hiểm hơn, nếu không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền khiến các ngân hàng không thu được nợ, tạo ra vòng xoáy nợ, chiếm dụng nhau. 

Vậy ông đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt động của TĐ-TCT và vai trò quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước?

Như tôi đã nói, so với quy mô, tiềm năng hiệu quả hoạt động, kinh doanh của TĐ-TCT không tốt, không xứng tầm, thua các thành phần kinh tế khác. Vừa qua, việc quản lý vốn nhà nước, tài sản nhà nước rất yếu kém, còn lỏng lẻo. Trước kia, Bộ Tài chính có riêng một tổng cục quản lý vốn DN, các DNNN được giao cho các Bộ, UBND tỉnh quản lý. Nhưng từ khi hội nhập, chúng ta bỏ cơ chế bộ chủ quản, thành ra buông lỏng quản lý. Một TĐ-TCT hoạt động theo luật có rất nhiều đại diện chủ sở hữu là bộ, ngành giám sát, nhưng thực tế các đơn vị này không làm hết trách nhiệm.

Theo ông, cần phải có cơ chế nào để giám sát chặt chẽ nguồn vốn nhà nước tại các TĐ-TCT này?

Trong tái cấu trúc DNNN mà trọng tâm là TĐ-TCT cần phải xây dựng được một hệ thống quản trị rủi ro, hay đưa ra một loạt quy tắc chuẩn mực về tài chính. Ví dụ, nếu vốn đi vay - nợ chiếm bao nhiêu lần vốn chủ sở hữu phải cảnh báo ngay, nhưng hiện tại chúng ta chưa có chuẩn đó, chỉ có các chuyên gia phân tích, đánh giá chung chung. Bộ Tài chính phải xây dựng, tham mưu cho Chính phủ đưa ra bộ quy tắc chuẩn này, từ đó định kỳ 6 tháng 1 lần đối chiếu, 1 năm tổng kết dựa trên báo cáo kiểm toán soi thật rõ, nếu DN nào vượt hệ số an toàn thì phải cảnh báo. Từ đó các ngân hàng cũng nhìn vào để xem xét cho vay hay không. Ngoài ra, cần học hỏi mô hình của Trung Quốc khi họ có một cơ quan quản lý vốn nhà nước, tất nhiên, quản lý giám sát phải đúng nghĩa, tránh can thiệp quá sâu, để đảm bảo không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN.

Lỗ hổng tập đoàn, tổng công ty: “Bức tranh nợ” rất đáng báo động
Vinashin, một điển hình về sự yếu kém của các tập đoàn - Ảnh: L.Q.P

Chủ trương của chúng ta khi tiến hành tái cơ cấu vẫn giữ các TĐ-TCT làm nòng cốt trong nền kinh tế. Nhưng hiện nay rất nhiều DN tư nhân làm ăn hiệu quả, quy mô lớn hơn cả TĐ-TCT. Ông có nghĩ rằng, không nên áp đặt suy nghĩ cứ DN hùng mạnh - trụ cột phải là DNNN mà không phải tư nhân?

Thực tế, trong các chính sách và hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay không khống chế sự lớn mạnh bất cứ thành phần DN nào, dù nhà nước hay tư nhân. Mọi DN đều bình đẳng, điều đó thể hiện rõ nhất khi DNNN chuyển qua hoạt động theo luật DN chung. Tôi cũng biết có những DN tư nhân rất lớn hoạt động hiệu quả như FPT, Hoàng Anh Gia Lai, Hòa Phát… sự thực không ai ngăn cản họ phát triển, mở rộng đầu tư, sản xuất.

Nhưng nếu các TĐ-TCT còn độc quyền thì làm sao những thành phần khác phát triển được?

Điều này là đương nhiên, và chúng ta đang trong quá trình giảm tối đa sự độc quyền của TĐ-TCT trong quá trình tái cơ cấu. Thực tế, hiện nay chỉ một vài lĩnh vực như điện, xăng dầu các TĐ-TCT còn chiếm thị phần lớn, còn các lĩnh vực khác cũng đã vận hành theo cơ chế thị trường. 

Ông có nghĩ rằng, chúng ta nên cởi mở hơn và có chính sách ưu đãi hơn với DN tư nhân?

Theo tôi, nhà nước sẵn sàng tạo ra một sân chơi bình đẳng, sẵn sàng tạo điều kiện cơ chế để cho DN tư nhân phát triển - chủ trương này đang được Đảng và Nhà nước thực hiện. Những chính sách ưu đãi đó là giảm gánh nặng về thuế, ví như thuế thu nhập DN theo lộ trình sẽ hạ thấp thuế suất từ 25% xuống, cải cách thủ tục hành chính từ việc sửa đổi luật Quản lý thuế, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ cái quan trọng nhất để chúng ta có DN tư nhân lớn, mang tầm quốc tế là ngoài sự khuyến khích, ưu đãi thì họ cần sự ổn định thực sự của kinh tế vĩ mô, trong đó có yếu tố như lạm phát, LS…

>> Lỗ hổng tập đoàn, tổng công ty: Kiểm soát, giám sát còn nể nang nhau
>> Cha chung không ai khóc
>> Lỗ hổng tập đoàn, tổng công ty - Kỳ 2: Sau tấm gương vỡ của 2 “Vina”
>> Lỗ hổng tập đoàn, tổng công ty

Anh Vũ
(thực hiện)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.