Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân - Kỳ 4: Trụ vững giữa hai bờ Bến Hải

25/09/2005 22:36 GMT+7

12/10/1968 Trung đội mình lọt vào vùng Cam Giang hoạt động. Bốn bề lửa khói. Trên trời, máy bay trực thăng phành phạch nhào lượn. Bọn mình đóng giả dân, trà trộn để làm nhiệm vụ.

Mạn trên, súng nổ ròn rã, pháo bắn dồn dập. L19 bay nhiều, rà sát mặt đất tìm mục tiêu. Một bà mẹ vừa chết vì bị quả pháo lạc. Một bộ xương người trắng mốc đã từ lâu nằm kề gốc cây đa ở An Mỹ. Vượt khỏi Bến Hải vào một đêm mưa tối trời. Những tay chèo khỏe mạnh đã lái con đò sang bờ Nam nhanh chóng. Nước sông dâng cao, hai bên bờ rộng rãi. Nhớ một câu nói của đài Hoa Kỳ tối 28/9: "...Đợt mưa này, nước sông Bến Hải lên cao, sẽ là khó khăn lớn cho việc rút ra Bắc của "Cộng quân" và rất dễ dàng cho việc tiêu diệt của quân Đồng minh...!".

Mẹ kiếp! Các ông mày đây! Đơn vị mình đã vào được trên mười ngày nay. Cắm chốt ở Thụy Bạn, Cường Gián. Đêm đi tập kích, phục kích suốt.

Xóm 8 - nơi trước kia mình đã từng lăn lộn - nay nó đã chiếm được và dựng lên mấy chiếc lô cốt. Đêm đêm, pháo sáng bắn rực trời. Cách đây ba ngày, Bảo - một thằng mình chúa ghét về phong cách sinh hoạt hồi ở ngoài Bắc - đã bắn sập một lô cốt ở xóm 8. Yên - người dân tộc Thái, ở A3 B1 - trong một trường hợp ngẫu nhiên (đi lạc), qua ánh đèn pha, Yên trông thấy một xe M41 nằm lù lù ngay cạnh, và đã "oàng" cho một phát B40 rồi tháo chạy một mạch về đơn vị an toàn.

Trong khói lửa dữ dội, khí thế anh em lên rất cao. Ai cũng phấn khởi với những chiến công của đơn vị.

Chỉ vài ba cá nhân còn rớt lại là làm hại đơn vị: T. - một thằng ba hoa, lắm mồm nhất - vào đây hóa ra nhát như một con gián. P. cảm tình Đảng, ở ngoài Bắc ai cũng phục về tài nói, tài làm; nhưng khi vào đây, ranh giới giữa cái chết và sự sống xích lại, P. đã nằm lì, kêu đau và xin ra Bắc...

Dạo này địch đánh phá mạnh. Pháo biển Cửa Việt, Dốc Miếu, Cồn Tiên... bắn tung tóe khắp mọi nơi. Lâm còn sống, đang và đã quen với bom đạn lắm rồi. Trúng thì chết thôi! Chẳng sao cả!

Đồng chí Việt hy sinh vì pháo đêm 6 tháng 10. Lúc pháo bắn cấp tập, Việt còn đùa bỡn, chửi tếu: "Ngu! Bố đây mà sao bắn mãi không trúng?". Vừa dứt lời, chẳng may một quả khác bay đến trúng giữa hầm.

Đồng chí Vĩnh B trưởng B1 đã hai năm ở chiến trường. Đánh đã nhiều trận mà không hề xây xát lấy một miếng da. Đêm 9/10, đi địa hình thôn 8 với Kịa, bị phục kích, Kịa chạy thoát, còn Vĩnh bị trúng năm viên đạn "cực nhanh", chết. Tội nghiệp! Hôm hành quân vào Nam, dọc đường ở Vĩnh Thành, Vĩnh tình cờ gặp người yêu. O ấy tặng cho Vĩnh một chiếc khăn mùi xoa mới, thêu khá đẹp và hẹn: "Khi quay ra, phải nhớ vào nhà em đã nhé!".

Địch càn ra thấu Cẩm Phổ, chúng đi toàn bằng tăng và đã được pháo, B52 dọn đường kỹ càng. Thế mà vẫn phải phơi sương lại 9 xe tăng. Vùng này gần sông, nên chúng khó mà cho trực thăng đến cắp xác mang đi. Thành thử, chỗ ở của 4 chiếc xe trở thành một bãi tọa độ nguy hiểm, chúng muốn thủ tiêu "của nợ" đó. Bọn mình đi qua, lấy tay gõ gõ vào tấm thép đồ sộ to như một toa tàu ấy mà lòng cảm thấy rạo rực, tự hào.
Đêm nay ra sông để trở về Bắc.

Cứ khoảng 5 phút, lại một loạt pháo bắn tới tấp vào bến. Tất cả tản ra, ngồi, nằm đủ kiểu để tránh pháo. Mình lội xuống nước ngập tận bụng, nếu có gì thì ngụp xuống. Quanh đây, không có lấy một cái hầm nào cả (vì không dám làm hầm ở đây, sợ chúng phát hiện, lộ bến). Sang bờ Bắc, khu vực Vĩnh Giang và Vĩnh Tân còn ác liệt hơn ở vùng Xuân Mỹ trong Nam. Nó bắn pháo suốt và thả bom tọa độ.

27/10/1968

Dạo này, máy bay bay nhiều, mức độ đánh phá lớn. Ngày cũng như đêm, bom nổ rền suốt không lúc nào ngớt. Trời nắng ráo sáng sủa thì máy bay trinh sát đến, dò la rồi gọi bọn bổ nhào đến cắt bom, bắn rốc-két, chỉnh cho pháo biển, pháo Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, bắn vào. Trời mây mù, u ám thì từng đoàn, từng đoàn một, theo từng ô có sẵn trên bản đồ, bay tít trên cao thả bom xuống. Còn máy bay B52 thì bất kể, sáng đánh, chiều đánh, nửa đêm đánh...

Ở C1, hai đồng chí ra bãi lấy củi, bị trúng ngay "tọa độ", một chết, một cụt chân.
Hôm kia, dọc đường đi Vĩnh Tú, khi qua chỗ ngã ba, mình tình cờ trông thấy một cánh tay đã teo khô nằm trong một khóm cỏ chổi.

Mấy o "con nhà" thương nghiệp về Bắc Phú cuốn thuốc. Họ chóng quen thuộc với cánh mình và mình cũng thấy vui vui, vì lính thời chiến chỉ quen với bom đạn mãi cũng phát ngấy, phát sốt!

Mấy o kể chuyện về một mối tình của anh ả nọ ở trong Vĩnh Sơn thật keo sơn thắm thiết. Nhưng rồi ả nọ bỗng chẳng may trúng bom, cụt mất một chân. Anh nọ đã xa lánh ả và bỏ hẳn. Kể xong, o Kính ngẩng mặt nhìn mình, thở dài, lắc đầu, kết luận: "Các anh là một lũ vô đạo đức!".

Mình không chịu, ngồi bịa ra, kể cho mấy o nghe về sự phản bội của đằng phụ nữ, và cũng kết luận: "Đàn bà các o thật là một giống dã man!".

O Cường quê ở Vĩnh Tú, trắng trẻo, đẹp mặt đẹp người. Vui tính và có học thức, tế nhị trong khi nói năng cười cợt. Có lúc mình nghĩ thầm, giá đừng có chiến tranh, mình sẽ "xách" o ta ra ngoài đó, chắc "ông bô bà bô" mình chẳng thể chê lấy được một câu nào! Cường cứ đòi nhận làm "chị", và đòi "út" Lân làm em để: "Ả có trách nhiệm lo lắng cho tương lai của út. Út có thiếu thốn gì, cứ bảo với ả sắm sửa cho!". Và Cường căn dặn mình: "Út đừng đi "cưa" (tức là tán tỉnh) kẻo khổ chị. Cưa lắm hàng xóm họ chê bai là chị không biết dạy dỗ em!".

Mình giả bộ thật thà, như một đứa em ngoan, nói: "Vâng ạ, chị dạy đúng. Út sẽ nghe lời chị, út chẳng đi cưa ai đâu. Khi nào buồn, út chỉ tìm đến chị chơi cho đỡ buồn thôi!". Mình nhấn rõ câu "chỉ tìm đến chị chơi thôi" một cách thích thú.

Cường bụm môi lại, lườm mình, rồi bất ngờ cười phá lên, trong trẻo...

(Còn tiếp)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.