Trách nhiệm của ngành than với an ninh năng lượng quốc gia

12/04/2022 18:00 GMT+7

Khả năng thiếu than cho sản xuất điện đã được Tập đoàn TKV cảnh báo từ sớm, đặc biệt đối với những nhà máy điện sử dụng than nhập khẩu.

Trước tình hình căng thẳng nguồn cung than gần đây, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho rằng đây là vấn đề đã được tập đoàn cảnh báo sớm.

Theo đó, TKV cho biết, phát biểu khi thảo luận về kinh tế xã hội tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV (tháng 10.2018), ông Lê Minh Chuẩn, đại biểu Quốc hội, Chủ tịch TKV đã đề cập đến vấn đề này với các mổ xẻ khá chi tiết.

Ông Lê Minh Chuẩn, ĐBQH, Chủ tịch HĐTV TKV

TKV

Thứ nhất, về vị trí vai trò của than đối với an ninh năng lượng quốc gia. Hiện nay, trong cơ cấu nguồn điện chúng ta sản xuất thì nhiệt điện than chiếm 40%. Theo quy hoạch, dự báo đến năm 2040 tỷ lệ này xấp xỉ 50%.

Có thể nói, hòn than chiếm một vai trò rất quan trọng trong vấn đề phát triển nguồn điện trong ngắn hạn (15-20 năm tới), thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, thiếu nguồn than cho các nhà máy nhiệt điện là một thực tế và có nguy cơ gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Cụ thể, giai đoạn 2017 - 2020 nhu cầu than Antraxit cho Việt Nam, cho các nhà máy nhiệt điện đã và đang chuẩn bị đi vào hoạt động, chiếm 40 triệu tấn/năm. Sản lượng này tăng lên vào năm 2021 - 2030 là 50 - 55 triệu tấn than, trong đó Việt Nam chỉ có 2 đơn vị sản xuất than là TKV và Tổng công ty Đông Bắc, sản xuất được 40 - 41 triệu tấn than.

Như vậy, trong thời gian ngắn hạn tăng 10 - 15 triệu tấn than Antraxit cho các nhà máy nhiệt điện Việt Nam là không khả thi và dẫn đến vấn đề thiếu than cho các nhà máy nhiệt điện dùng than Antraxit là hiện hữu và ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh năng lượng quốc gia.

Mặt khác, trong kế hoạch giai đoạn 2017 - 2030, Việt Nam phải nhập khoảng 70 triệu tấn than nhiệt năng bitum và á bitum, do đó, đây không thuần túy ở vấn đề thương mại nữa mà phải tìm nguồn ổn định đầu tư tại nước ngoài.

Có thể nói đến năm 2030, Việt Nam không còn độc lập về năng lượng nữa mà phụ thuộc vào nguồn năng lượng từ nước ngoài. Đây là thách thức lớn đối với an ninh năng lượng quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, chúng ta cần đổi mới tư duy về chiến lược an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030 và sau năm 2030.

Thứ ba, về những nguyên nhân và thách thức phát triển ngành than, có 4 vấn đề sau: Một là tài nguyên than của Việt Nam hiện nay nằm chủ yếu ở Quảng Ninh, còn bể than đồng bằng sông Hồng hiện nay chưa có công nghệ để khai thác.

Hai là khai thác mỏ ngày càng xuống sâu và xa, mọi điều kiện sản xuất và tăng năng suất lao động rất khó khăn, chi phí ngày càng tăng lên.

Ba là việc cấp phép đầu tư cơ chế, chính sách cho hòn than hiện nay rất hạn chế. Vấn đề tái đầu tư trở lại phát triển mỏ than gặp rất nhiều khó khăn.

Bốn là nguồn nhân lực chính cho lao động làm than là thợ lò thì hiện nay đang suy giảm rất nhanh, trong khi đó chưa có công nghệ để thay thế lực lượng này.

Từ đó, ông Chuẩn nêu 4 vấn đề cần giải quyết cấp bách giúp ngành than phát triển.

Thứ nhất, cần đổi mới chính sách về quản lý tài nguyên, khoáng sản theo nguyên tắc thị trường, hội nhập ngay từ việc cấp giấy phép để các doanh nghiệp mỏ và khí chủ động trong vấn đề phát triển nguồn tài nguyên này.

Thứ hai, bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý, văn bản dưới luật về quản lý tiêu chuẩn phân cấp cho các doanh nghiệp than, khí có một môi trường đầu tư thuận lợi, kể cả nước ngoài và trong nước.

Thứ ba, cần có cơ chế, chính sách bình đẳng giữa than nhập khẩu và than trong nước theo thông lệ quốc tế và theo giá quốc tế.

Thứ tư, cần phải có một chính sách đối với đối tượng công nhân làm nghề độc hại và nguy hiểm như công nhân hầm lò về chính sách tiền lương, bảo hiểm, thâm niên nhà ở cho công nhân.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.