Nữ danh xứ Nam Kỳ: Thiếu nữ cải trang nam đi làm cách mạng

08/03/2015 05:42 GMT+7

Thời mà người phụ nữ bị trói buộc trong xó bếp và khuôn chặt trong quan niệm "tam tòng tứ đức", bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt đã dám cắt phăng mái tóc đẹp, cải nam trang cùng 5 người trốn xuống tàu, vượt biển sang Trung Quốc, để được dự lớp học chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc đào tạo.

Thời mà người phụ nữ bị trói buộc trong xó bếp và khuôn chặt trong quan niệm "tam tòng tứ đức", bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt đã dám cắt phăng mái tóc đẹp, cải nam trang cùng 5 người trốn xuống tàu, vượt biển sang Trung Quốc, để được dự lớp học chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc đào tạo.

 
Bảo Lương Nguyễn Trung NguyệtBảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt
Bà trở thành một trong những hội viên đầu tiên của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Sau này cũng chính bà là người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng Hội Phụ nữ giải phóng ở Nam bộ.
Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt sinh vào ngày rằm tháng 2 năm Kỷ Dậu (1909), tại làng Bình Đại (tỉnh Mỹ Tho). Cha mẹ đặt tên Trung Nguyệt với niềm mong ước khi lớn lên bà sẽ là một cô gái xinh đẹp, tiết hạnh sáng rỡ như vầng trăng đêm rằm. Năm 12 tuổi, gia đình dời về Rạch Giá lập nghiệp. Cuộc sống cơ cực trôi qua nhờ sự tháo vát, thương khó của cha mẹ, bà trở thành số ít bé gái được học Hán văn với ông ngoại và cha, học chữ quốc ngữ với người chú. Nhờ sớm có khiếu văn chương nên từ nhỏ bà đã xướng họa thơ cùng cha trong những lúc nhàn tản. Năm 14 tuổi, bà đã nổi tiếng hay chữ, giỏi thơ phú trong vùng. Ở tuổi 16, tên tuổi bà đã vượt ra khỏi tỉnh lẻ, được giới thiệu và đăng thơ trên những tờ báo lớn ở Sài Gòn. Do lớn lên trong cảnh mất nước nhà tan nên cha bà nung nấu trong lòng nỗi căm thù giặc Pháp sâu sắc. Trong những lúc xướng họa thơ, chơi cờ, ông thường thủ thỉ với con gái: “Con có biết không, Tây tặc đã cướp mất nước của mình rồi".
Nhiều gia đình địa chủ giàu có, thân Pháp cầu hôn Trung Nguyệt, nhưng cha bà từ chối vì không muốn gả con gái cho loại người ấy. Bà bộc bạch trong hồi ký: "Dài theo tháng năm khôn lớn của tôi, được ông cha căm hận thực dân rèn luyện hiểu biết thêm sự tham ác của ngoại bang để thâm thù bọn xâm lược ngày càng cao độ. Dai dẳng suốt hai năm tranh chấp thành kiến của gia đình, đã phá thành trì lễ giáo bền hơn bất cứ loại sắt đá hữu hình nào, gạt bỏ chi tiết vụn vặt khổ tâm của nếp sống người con gái mà phong kiến còn lưu lại chặt chẽ với bốn bức tường "khuê môn bất xuất", tôi bạo phổi "xuất môn". Trong lúc cha của bà ngâm nga khoe với những người bạn về bài thơ đầy khí khái của con gái mới làm ở nhà Hội Khuyến học Phước Long, thì ở nhà, hai người em của Bảo Lương đã giúp chị chuyển hành lý trốn nhà ra đi một cách an toàn.
Bảo Lương không khỏi lo âu, sợ hãi trước tự do và sự chọn lựa của mình: "Bây giờ thì tôi thong dong dưới phòng tàu Đồng Sanh cách nhiều cây số ngàn rồi, chắc chắn là tôi được tự do đi tìm con đường cách mạng… Nhưng lòng tôi băn khoăn, man mác, ngẩn ngơ như chim lạc tổ bàng hoàng. Tôi soạn mau trong trí nhớ những lời căn dặn của mẹ tôi nói những ngày thường nhật".
Đến Sài Gòn, bà ở nhờ nhà ông Tôn Đức Thắng. Rồi bà nôn nóng đi tìm ông Mai Bạch Ngọc, rể bà Sương Nguyệt Anh để học hỏi… Bà không ngờ bầu máu được dấn thân cho lý tưởng độc lập đất nước thấu đến Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Tổ chức chọn Bảo Lương sang Quảng Châu, Trung Quốc dự khóa học chính trị do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Bà sung sướng đến rơi nước mắt khi nhìn thấy phía trước một thế giới đang rộng mở, một thế giới mà từ lâu tầm mắt bà bị che khuất bởi bốn bức tường…
Tuy nhiên, do Bảo Lương là một thiếu nữ có nhan sắc nên mọi việc không dễ dàng, khi tổ chức đưa một thiếu nữ xuống tàu một cách bí mật cùng 5 thanh niên một người đã có sáng kiến nên cải nam trang cho Bảo Lương, bởi nếu là đàn ông đi cùng nhóm thì sẽ ít bị chú ý và nghi ngờ hơn.
Con tàu mỗi lúc mỗi xa bến, sóng vỗ miên man, ngầu bọt. Xóm làng thân thương xa dần, bất giác Bảo Lương nhớ nhà vô kể. Và rồi những ngày trên đất Quảng Châu đã tôi luyện cho cô gái đa cảm ấy một ý chí sắt đá. Bà đã học được nhiều bài học quý giá từ cách vận động quần chúng, tập diễn thuyết trước họng súng kẻ thù, những đêm trắng giằng xé để chọn lựa tình riêng và lý tưởng đại cuộc. Và điều cô đau đớn hơn tất cả phải hy sinh mối tình đầu tuyệt đẹp để trở về Tổ quốc, khi sứ mạng còn trĩu nặng trên đôi vai. Con người đa cảm, khao khát được yêu thương, được sống trong hạnh phúc của Bảo Lương luôn bị nén lại. Cô đã gác những thi hứng dào dạt, trữ tình để viết những bài thơ kêu gọi nữ quyền khi phụ trách mục nữ giới trên tờ báo Thanh Niên.
Năm 1928, Bảo Lương về nước trên một chuyến tàu bí mật. Nhiệm vụ của tổ chức giao phó trĩu nặng trên đôi vai là phải vận động xây dựng cho bằng được tổ chức Hội Phụ nữ giải phóng ở Nam bộ.
Bảo Lương bị bắt trong một vụ án ở đường Barbier (Lý Trần Quán), bị kêu án 10 năm tù. Địa ngục trần gian với những đọa đày nghiệt ngã, vượt lên những ngón đòn tra tấn dã man, người con gái với tâm hồn đa cảm chợt trở nên đầy khí phách, dũng cảm.
Bảo Lương ra tù năm 1937, lách mình ra khỏi sân khấu chính trị để làm một người vợ, người mẹ bình thường sau khi đã làm tròn vai trò tiên phong đáng khâm phục của người Phụ nữ một thời dám bức ra khỏi bốn bức tường lễ giáo phong kiến, dấn thân cho lý tưởng cách mạng. Bà mất năm 1976.
Năm 2000, nhờ dành dụm được ít lộ phí, tôi quyết làm một chuyến sang Quảng Châu, tìm lại những nơi in dấu chân bà Bảo Lương đã đi qua. Khi đến ngôi nhà 250 Văn Minh (xưa là số 13 Văn Minh), tôi chạm vào từng bậc cửa, từng bậc cầu thang, chiếc giường, bộ bàn ghế, vật dụng năm xưa bà đã học tập, làm báo Thanh Niên. Quảng Châu bây giờ đã quá khác xưa nhưng vẫn gợi cho tôi bao xúc cảm về một người phụ nữ gan dạ này.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.