Trở về Paris

01/12/2007 15:57 GMT+7

Lần đầu đến Paris năm 1998, tôi hơi thất vọng vì trước đó hình dung kinh thành ánh sáng phải hoa lệ lắm. Học tiếng Pháp từ nhỏ với những giáo trình luôn ca ngợi Paris, tôi đắm chìm trong niềm mơ ước được một lần đặt chân đến thủ đô xinh đẹp của đất nước mang hình lục giác. Paris với đồi Monmartre, giáo đường Sacré Coeur, tháp Eiffel, đại lộ Champs Élysée, Khải Hoàn Môn... tất cả đều được mô tả thật lộng lẫy, lãng mạn và không một tì vết. Thế nhưng khi lần đầu được chiêm ngưỡng dung nhan Paris, tôi biết mình đã quá giàu trí tưởng tượng.

Paris vẫn đẹp với những gì người ta hay nhắc đến, Paris vẫn hoa lệ rực rỡ ánh đèn màu, Paris vẫn sang trọng với những cửa hàng cao cấp, nhưng tôi không thấy được cái hồn của thành phố có số khách du lịch thuộc loại cao nhất thế giới này. Những thành phố ít nổi tiếng của Pháp lại được tôi yêu thích hơn như Avignon, Aix en Provence, Grenoble...  Đặc biệt có nơi toàn tỉnh lẻ nhưng tôi thấy xúc động khi đứng trước một cửa sổ gỗ màu xanh nhẹ nhàng hay những con đường lát đá thật duyên dáng. Có lẽ tôi đòi hỏi quá cao khi muốn Paris phải thật hoàn hảo nên đã thất vọng khi nhìn thấy những người vô gia cư tái mình trong gió rét, những đoạn xe điện ngầm chen chúc, những con đường đầy rác, sông Seine đục ngầu và cả những "bãi mìn" của lũ chó cưng rải rác khắp nơi.

Hai năm sau, may mắn lại đến với tôi khi được quay lại Pháp, lần này do không còn ảo tưởng, tôi vui mừng được gặp lại Paris với tháp Eiffel chơi vơi, nhà thờ Đức Bà cổ kính, bảo tàng Louvre đa dạng. Bà Michèle, một  người bạn thân thiết dù lớn hơn tôi đến bốn chục tuổi đã nhiệt tình đón tôi về nhà, đưa tôi đi dạo đây đó, vào những con hẻm nhỏ vô danh, đến những tiệm ăn trong góc khuất. Lạ lùng thay, tôi bắt đầu thấy yêu Paris khi tiếp cận với cuộc sống thật ở đây. Tôi thích đi xe điện ngầm dù đôi khi phải chen chúc để có cảm giác mình cũng bận rộn chạy đua với cuộc sống mưu sinh, để được mệt mỏi, gà gật ngủ cùng những con người phải vật lộn với bao nhiêu chi phí đắt đỏ, để thấy lòng chùng xuống, buồn ngơ ngẩn nhìn những người nghệ sĩ lầm lụi chơi nhạc trong sự hờ hững của mọi người.

Dân Paris vốn bị chê là không nhiệt tình, lạnh lùng, thờ ơ với những khó khăn của người khác. Nhưng suy cho cùng dân Paris là ai? Còn lại bao nhiêu phần trăm là người Paris chính hiệu? Nào là du khách đủ mọi hạng sang hèn, du học sinh từ khắp nơi trên thế giới, dân tỉnh lẻ đổ về tìm việc làm, những thành phần nhập cư hợp pháp và không hợp pháp, những cô gái giang hồ đến từ những nước Đông u...

Một năm sau, khi du học ở Bỉ, tôi đã buồn vơ vẩn mỗi khi nhớ về Paris, lòng thường hay nuối tiếc mình không được học ở đây. Tuy nhiên, tôi tự biết mình không thể chịu đựng nổi cuộc sống ở Paris nếu phải sống dài hạn. Tôi ngại phải di chuyển rất xa trong thế giới dưới hầm của hệ thống xe điện ngầm, tôi không thích cuộc sống đắt đỏ, tôi không ưa cái cảnh chen chúc. Thỉnh thoảng trong những kỳ nghỉ, tôi vẫn từ Bỉ đáp xe lửa hay xe đò về thăm lại Paris, xúc động khi nhìn người bạn già của mình đứng đón trong làn gió rét tê tái rồi cũng chính bà đưa tôi lên xe quay lại Bỉ trong ánh mắt yêu thương và cái vẫy tay không muốn rời. Từ đó, tôi nhận ra Paris còn những người lớn tuổi cô đơn thật đáng yêu, như Michèle mà sau này tôi nhận làm mẹ tinh thần của mình. 

Mãi đến ba năm sau, vào cuối 2005, tôi mới có dịp quay lại châu u, ghé vào thủ đô nước Pháp thăm lại bà mẹ Paris của mình. Chúng tôi quấn quýt bên nhau, cùng nhau đi dạo khắp nơi để được cảm nhận Paris thật gần. Chúng tôi đã ngỡ ngàng nhìn thấy một bà lão gần chín mươi tuổi sống một mình trên một chiếc sà lan có mui. Bà cụ nói mình là Ma-đàm Petit, chồng chết nhiều năm, không con cái, không người thân, không ai quan tâm chăm sóc. Bà âm thầm chống chọi với sự cô đơn, với cái rét mùa đông, với cái nóng mùa hè, với tiếng động bất an trong đêm khuya, với những cơn bệnh không tên của người biết mình đã gần về với Chúa.

Vài ngày một lần, bà già phải leo từ sà lan ra đường phố để mua thức ăn. Có những ngày mực nước xuống thấp hơn con đường, bà loay hoay mãi không leo ra được, đành buồn rầu ngồi chờ không biết chừng nào mới có thể thoát ra. Tôi không hiểu nổi tại một khu phố với nhiều tòa nhà cao tầng của hàng trăm công ty, tại con sông Seine trứ danh vắt ngang Paris, tại một thủ đô của đất nước đề cao những giá trị con người lại có một Ma-đàm Petit tồn tại như thế. Chúng tôi cố thuyết phục bà già leo lên bờ để đến tạm trú tại một nhà dưỡng lão nào đó, song bà cự tuyệt: "Cả đời tôi sống và làm việc trên chiếc sà lan này, tôi đã chuyên chở ngũ cốc cùng ông nhà tôi. Tôi không đi đâu hết. Rồi tôi sẽ chết ở đây, có thể lâu lắm người ta mới tìm ra, nhưng tôi không có sự chọn lựa nào khác".

Đầu năm 2006 tôi lại quay về Paris, để ru lòng mình với một cuộc sống vô cùng phong phú, với những kiếp người thật trái ngược nhau, với những cảnh tượng vô cùng đối lập. Song đó mới thật là một cuộc đời đúng nghĩa, với những ai muốn bon chen sẽ có nhiều cơ hội, những ai thích dừng lại vẫn tồn tại giữa cuộc sống đang trôi. Paris là nơi luôn quyến rũ người ta đến, để rồi đã một lần ghé qua, sẽ chẳng thể nào dứt nổi lòng ham muốn được lần sau quay lại.   

Phương Khanh

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.