Vụ "Cảnh sát dùng kiếm tấn công nhân viên an ninh sân bay": Đỗ Hoài Phương Minh phạm tội gì?

15/08/2007 00:10 GMT+7

Trên Thanh Niên số ra ngày 14.8, thượng tá Võ Tương - Phó CA Q.Hải Châu (Đà Nẵng) cho rằng: "Khi đang gây gổ mà anh cầm hung khí thì rõ là anh sai rồi. Nhưng tội chống người thi hành công vụ (NTHCV) chỉ cấu thành khi đương sự có tác động vào thân thể NTHCV, nên đối với trường hợp của Minh thì chưa cấu thành tội này vì chưa gây hậu quả cho ai".

Ngày 14.8, luật sư (LS) Đỗ Pháp (Trưởng văn phòng LS Đỗ Pháp, Đoàn luật sư TP Đà Nẵng) đã phân tích với PV Thanh Niên các vấn đề mang tính pháp lý liên quan đến vụ việc. LS Đỗ Pháp nói:  

- Qua thông tin báo chí cũng như biên bản hiện trường, trước hết, cần phân định hành vi của ông Minh có rơi vào các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính hay không? Theo "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999" (NXB Công an nhân dân - 2001), mặt khách quan của các tội này được thể hiện ở các dạng hành động và không hành động. Một số tội phạm của loại tội này chỉ có thể được thể hiện ở dạng hành động, như tội chống NTHCV, thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để không cho cá nhân, nhân viên thi hành chức trách của mình. Hành vi đe dọa dùng vũ lực phải mang tính chất hiện thực, tức là phải có cơ sở để NTHCV tin rằng nó sẽ được thực hiện ngay tức khắc.

Đối chiếu với hành vi của ông Minh, khi nhân viên an ninh (NVAN) yêu cầu đậu xe đúng nơi quy định thì không chấp hành và gây gổ. Cần xác định ông Minh có rút kiếm hay không? Nếu có, tức là đã dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. Trong trường hợp của ông Minh, việc nói rằng vỏ kiếm chỉ vô tình rơi ra là không có cơ sở.

Ông Minh có tấn công NVAN hay chưa, thì phải xem xét toàn bộ diễn biến của vụ việc để chứng minh. Căn cứ biên bản hiện trường và tường trình của nhân chứng thì có thể thấy hành vi này của ông Minh là rất rõ. Còn đó là "kiếm" hay là "dao" thì đều là hung khí theo quy định của BLHS (vật sắc nhọn, dao, kiếm, cây tự tạo...)

Như vậy có thể thấy hành vi của ông Minh có dấu hiệu cấu thành tội chống NTHCV theo Điều 257, Khoản 1 BLHS: "Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở NTHCV thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm".

* Nếu ông Minh "chưa gây hậu quả cho ai" thì có  bị xem là chống NTHCV?

- Như trên đã nói, tội chống NTHCV thể hiện ở hành vi dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. Có nghĩa chỉ cần "đe dọa dùng vũ lực" là đã phạm vào tội này rồi, chứ không phải đợi tới lúc tác động vào thân thể NTHCV, gây ra thương tích.

Mặt khác, hậu quả do một hành vi phạm tội gây ra không chỉ được xét trên khía cạnh vật chất, sức khỏe mà cả về tinh thần. Rõ ràng hành vi của ông Minh không chỉ gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, nguyên tắc làm việc của lực lượng an ninh sân bay mà còn tạo ra dư luận xã hội rất xấu, nhất là khi ông lại là một cán bộ công an. Những hậu quả đó còn nghiêm trọng hơn nhiều so với hậu quả đối với sức khỏe của NTHCV.

* LS thấy hành vi của ông Minh có dấu hiệu phạm vào tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ...?

- Căn cứ Điều 234 BLHS về tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ để đối chiếu với trường hợp của ông Minh, có thể thấy ông đã sử dụng thanh kiếm là công cụ hỗ trợ để thực hiện hành vi chống NTHCV.

Căn cứ Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, mục 2.2, điểm a thì các công cụ, dụng cụ như búa, đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn... đều thuộc loại "phương tiện nguy hiểm". Cho nên, hành vi của ông Minh cũng có dấu hiệu của tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo Điều 234 BLHS.

* Thưa LS, biên bản hiện trường do cơ quan chức năng lập và lời khai của đương sự tại cơ quan công an thì cái nào có giá trị pháp lý hơn?

- Về nguyên tắc, biên bản lập tại hiện trường là cơ sở pháp lý để xem xét quá trình diễn biến, bối cảnh xảy ra vụ việc. Đương sự có quyền không ký biên bản, nhưng điều đó không có nghĩa là biên bản không có giá trị. Trong vụ việc này thì quan hệ nhân quả đã thể hiện rất rõ. Hành vi của ông Minh, biện pháp của an ninh sân bay và sự xuất hiện của các cơ quan chức năng, cụ thể là công an, đều lần lượt diễn ra một cách logic.

Căn cứ Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không bắt buộc phải chứng minh mình vô tội. Khi tiến hành điều tra phải căn cứ biên bản hiện trường, lời khai của các bên liên quan, nhân chứng... để xác định sự thật của vụ án.

Trong trường hợp này, biên bản hiện trường và tường trình của nhân chứng hoàn toàn phù hợp với nhau, chỉ có lời khai của đương sự tại cơ quan công an là ngược lại. Do đó, không thể chỉ dựa vào lời khai của đương sự để bác bỏ biên bản hiện trường. 

Đối với vụ việc của ông Minh, không ai có thể chấp nhận một kết thúc và một cách giải quyết không đảm bảo tính pháp lý, phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ kỷ cương phép nước. 

Cẩm Thanh (thực hiện)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.