Vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20, di động ở Việt Nam là dịch vụ xa xỉ. Mỗi chiếc điện thoại kèm sim có giá tương đương nửa chiếc xe máy. Để có thể kết nối di động, người dân phải mất 200 USD tiền thuê bao, thêm vào đó là vài chục USD để chi cho cước phí kết nối. Ngay cả những người nước ngoài đến Việt Nam, ở trong khách sạn 5 sao cũng phải lắc đầu vì chi phí điện thoại quá đắt đỏ tại quốc gia đang cố gắng vươn mình phát triển hậu chiến tranh và cấm vận kinh tế.
Là lãnh đạo cấp cao trong ngành Bưu chính Viễn thông thời đó, ông Mai Liêm Trực liên tục nhận được lời than của doanh nhân quốc tế, chuyên gia thế giới về vấn đề chi phí viễn thông ở Việt Nam. Sau này, ông đưa những kỳ vọng về một “kết nối di động dễ dàng và giá rẻ hơn” trong giấy phép ký cho Viettel, cho phép đơn vị này là doanh nghiệp được triển khai đầy đủ tất cả các loại hình kinh doanh dịch vụ về bưu chính viễn thông vào năm 1998.
Giấy phép được ký ngày đó bị đặt dưới con mắt nghi ngại của nhiều người, bởi Viettel là doanh nghiệp non trẻ, vừa thoát mác đơn vị xây lắp. Thành công của Viettel vào thời điểm ấy mới dừng lại ở việc hoàn thành đường trục cáp quang 1A với công nghệ thu phát trên cùng một sợi quang do chính Viettel thực hiện. Công ty này chưa thực sự bước chân vào địa hạt kinh doanh viễn thông, dù công nghệ thu phát trên cùng một sợi quang mà họ tự nghiên cứu được coi như một bằng chứng về năng lực kỹ thuật về viễn thông khi đó.
Khi cấp mã số để nhà mạng này bắt tay vào làm di động, ông Trực chia sẻ rằng ngay cả cơ quan chủ quản của Viettel khi đó là Bộ Quốc Phòng cũng rất lo lắng. Bởi thời điểm đó, chưa từng có một đơn vị mà người lính lại đứng đầu trên trận chiến về kinh tế ở lĩnh vực quan trọng như vậy.
“Chủ trương chung là thành lập Viettel để làm viễn thông, phá thế độc quyền doanh nghiệp, nhưng khi làm thì các anh cũng lo lắng lắm. Anh Phạm Văn Trà (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khi đó) thường ra gặp riêng tôi sau mỗi cuộc họp Chính phủ, nói tôi để mắt giùm, quản giúp doanh nghiệp. Các anh, và ngay cả tôi, lúc đó không ai nghĩ Viettel có thể trở lên to lớn như hôm nay, bởi khi đó doanh nghiệp này chỉ là một đơn vị nhỏ bé”.
Năm 2000, Viettel ra mắt đầu số 178 trên nền dịch vụ VoIP, đánh dấu bước chuyển mình của ngành viễn thông Việt Nam. Điện thoại đường dài từ chỗ là dịch vụ đắt đỏ đã trở nên rẻ hơn nhiều so với trước đó. Thành công của 178 không chỉ mang lại bước phát triển rực rỡ đầu tiên cho Viettel, mà còn mở toang cánh cửa sau những năm dài đằng đẵng chờ đợi một cú huých thực sự mở cửa thị trường viễn thông cạnh tranh ở Việt Nam.
Năm 2003, với việc xây dựng và đưa vào khai thác trạm vệ tinh mặt đất cửa ngõ viễn thông đi quốc tế, dung lượng kết nối quốc tế mạng IXP của Viettel đã được nâng lên 45Mbps. Đến năm 2005, mạng Internet của Viettel được mở rộng ra toàn quốc. Đến tháng 9/2003, Viettel bắt đầu cung cấp dịch vụ điện thoại cố định tại Hà Nội và TP HCM, sau đó mở rộng ra các tỉnh thành khác trên cả nước.
Ngày 15/10/2004, Viettel chính thức khai trương mạng di động, với đầu số 098. Sau chưa đầy 1 năm, Viettel tạo nên sức hút và bứt tốc mạnh mẽ, đạt mốc 1 triệu thuê bao – mức tăng trưởng mà các mạng di động trước đó phải mất hơn 10 năm mới đạt được. Sự ra đời của Viettel Mobile cùng rất nhiều đợt giảm giá, khuyến mại khủng đã tạo nên kỷ nguyên bùng nổ của ngành thông tin di động ở Việt Nam.
Tomato (gói cước cà chua) ra đời, đưa Viettel lên đà phát triển bùng nổ. Mảng di động tăng trưởng năm sau gấp đôi năm trước. Là Phó Giám đốc Viettel Mobile thời kỳ đó, ông Nguyễn Việt Dũng, Trưởng ban Chiến lược Tập đoàn Viettel miêu tả niềm vui của những người thân trong gia đình ông ở quê lần đầu tiên được nhìn thấy chiếc sim di động của gói cước Tomato là "như nhìn thấy thế giới trong bàn tay mình".
Từ con số 0 doanh thu viễn thông vào năm 2000, đến năm 2010, Viettel đã vượt qua VNPT về cả doanh thu, thuê bao và thị phần, trở thành nhà mạng số 1 ở Việt Nam, biến điều xa xỉ chỉ vài năm trước trở thành thứ thiết yếu, phục vụ cho nhu cầu cơ bản của mọi người dân: kết nối và thông tin. Giờ đây, công ty này là nhà mạng đầu tiên triển khai thử nghiệm dịch vụ 5G tại Việt Nam, phục vụ hơn 70 triệu thuê bao di động trong nước và có 10 thị trường quốc tế trên 3 châu lục.
Năm 2006, Viettel bắt đầu nghĩ đến việc đi ra nước ngoài. Ban dự án Đầu tư nước ngoài được thành lập, với mục tiêu ban đầu là khai trương được ở hai quốc gia láng giềng là Campuchia và Lào. Năm 2009, Metfone chính thức hòa mạng, cùng thời điểm Viettel ở Việt Nam trở thành nhà mạng số 1 về thuê bao và lợi nhuận. Đây cũng là năm đánh dấu lần đầu tiên một doanh nghiệp viễn thông Việt Nam có nhà mạng riêng của mình tại thị trường quốc tế.
Trong trí nhớ của ông Mai Liêm Trực, cuộc gọi với ông Nguyễn Mạnh Hùng - khi đó là Phó Tổng giám đốc Viettel (hiện là Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông) - vào năm 2009 mang đến rất nhiều cảm xúc. Cuộc gọi được kết nối giữa Việt Nam và Campuchia đã cho thấy quyết tâm của ban lãnh đạo Viettel về tương lai của công ty này khi đó.
"Khi tôi gọi cho Hùng, Hùng nói ngay trên điện thoại khi đang công tác ở Campuchia rằng 'Chú ạ, số 1 của Việt Nam nhưng so với các doanh nghiệp viễn thông thế giới không là gì hết, nên Viettel sẽ luôn tạo ra áp lực để vươn lên, để vào Top 20, top 15 thế giới. Cháu không thích là số 1'. Câu nói ấy cho tôi cảm nhận một khát vọng, sự dấn thân, và tầm nhìn của Viettel ngay từ năm ấy", ông Trực chia sẻ.
Mang bài học từ Việt Nam áp dụng vào thị trường Campuchia, Metfone - thương hiệu của Việt Nam tại Campuchia - đã nhanh chóng đạt được thành công vang dội. Từ thành công ở Campuchia, 31 nhân sự Viettel tiếp tục được cử đến Lào để thực hiện dự án Unitel.
Suốt từ năm 2009 đến năm 2018, Viettel liên tục mở rộng thị trường quốc tế với việc triển khai hoạt động từ châu Á đến châu Phi và Mỹ Latinh. 10 công ty mang thương hiệu của Viettel đang hoạt động trên 3 châu lục. Trong đó, ở 5 thị trường, công ty con của Viettel đang đứng ở vị trí số 1 về thị phần thuê bao, doanh thu, và lợi nhuận: Campuchia, Lào, Burundi, Đông Timor, Mozambique.
Peru là thị trường quốc tế đầu tiên có trình độ phát triển kinh tế cao hơn so với Việt Nam (GDP đầu người của Peru cao cấp hơn 3 lần Việt Nam) kinh doanh có lãi và nằm trong số những thị trường đem lại lợi nhuận từ nước ngoài lớn nhất. Myanmar – thị trường quốc tế thứ 10 của Viettel và cũng là thị trường có tăng trưởng lập kỷ lục của Viettel trong lịch sử kinh doanh viễn thông. Chỉ sau khoảng 8 tháng kinh doanh, Viettel Myanmar đã có hơn 5,4 triệu thuê bao, vươn lên vị trí thứ 3 ở thị trường quốc tế lớn nhất của Viettel.
Sự thành công của Viettel ở nước ngoài tạo nên một thực tại mới về đầu tư của Việt Nam. Đất nước hình chữ S giờ đây không chỉ chờ đợi đối tác nước ngoài rót vốn đầu tư vào viễn thông công nghệ thông tin, mà còn sở hữu những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực kinh tế đầu tư ra thế giới và vươn lên vị trí số 1 ở nhiều quốc gia.
Viettel không chỉ tạo ra dấu son chói lọi trong lịch sử phát triển của riêng mình, mà còn đưa vị thế của Việt Nam lên cao trên trường quốc tế, giống như câu chuyện nhỏ mà cựu Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông kể lại: "Tôi đi khai trương mạng Viettel ở Tanzania, đại sứ Việt Nam ở đây mời cơm đoàn đại biểu và nói rằng, từ khi có Viettel đầu tư sang, vị thế của Việt Nam tại đây khác hẳn".
Hiện tại, lời nói của vị lãnh đạo Viettel với Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông năm xưa cũng đã thành hiện thực: Tập đoàn này đã đứng trong danh sách 15 công ty viễn thông lớn nhất thế giới về thuê bao.
Nói về Viettel, người ta nhắc nhiều đến ý chí và kỷ luật của một doanh nghiệp xuất thân từ quân đội. Thế nhưng, trên hết, sự kịp thời, nắm đúng thời cơ, chuyển đổi nhanh, tạo áp lực tích cực đã biến một doanh nghiệp nhỏ với số vốn chỉ vỏn vẹn 2 tỷ đồng vào năm 1989 trở thành tập đoàn kinh tế số 1 Việt Nam.
Làm VoIP hơn 1 năm, Viettel đã thấy rằng phải làm mở rộng ngành kinh doanh, thế là làm di động; từ di động, rồi nhảy ra nước ngoài. Khi ra nước ngoài, đạt được thành công nhất định, cũng là lúc cuộc cách mạng 4.0 tràn tới, và mở ra cơ hội để đưa Việt Nam đứng vào điểm xuất phát cùng với các nước phát triển. Những người đứng đầu tập đoàn này đã nhanh chóng chuyển mình sang ngành công nghiệp, nghiên cứu sản xuất thiết bị trên nền công nghệ mới, đồng thời tiến hành chiến dịch chuyển đổi số mạnh mẽ với sứ mệnh trở thành đầu tàu trong việc kiến tạo xã hội số ở Việt Nam.
Với chuyển đổi số, trong nước, Viettel thực hiện ảo hóa tất cả các thiết bị mạng lõi và triển khai công nghệ mạng điều khiển bằng phần mềm dựa vào nền tảng công nghệ mới như BigData, AI, VR; xây dựng hệ sinh thái kinh doanh hướng đến trở thành nhà cung cấp dịch vụ số. Với công ty con ở nước ngoài, Metfone được giao nhiệm vụ là công ty tiên phong, kiến tạo và dẫn dắt công cuộc xây dựng nền kinh tế và xã hội số tại Vương quốc Campuchia bằng những công nghệ tiên tiến nhất, bao gồm cả 5G, trí tuệ nhân tạo AI, thực tế ảo VR, Big data...
Trong lĩnh vực nghiên cứu sản xuất thiết bị, Viettel quyết tâm làm chủ và tự sản xuất các thiết bị công nghệ cao, thay vì gia công cho người nước ngoài. Đội ngũ lãnh đạo của Viettel chỉ rõ con đường cho tập đoàn này là tạo ra những sản phẩm “Made by Vietnam”, do những bộ óc của Việt Nam tạo ra, chứ không phải phát triển sản phẩm trên nền công nghệ lõi của quốc tế để cộp mác “Made in Vietnam”.
Sau 10 năm khởi động và triển khai, Viettel đã làm chủ và sản xuất được gần như toàn bộ hệ thống mạng viễn thông lõi, như hệ thống tính cước theo thời gian thực (OCS), hệ thống nhắn tin, trạm phát sóng BTS 4G, đang nghiên cứu thiết bị phát sóng 5G…, đứng vào hàng ngũ một trong 5 nhà sản xuất thiết bị viễn thông lớn nhất thế giới và lọt top 50 thương hiệu viễn thông đắt giá nhất hành tinh.
Ngoài làm viễn thông, Viettel cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của một đơn vị đầu tàu trong ngành vũ trang, khi liên tiếp sản xuất thành công các thiết bị công nghệ cao, như hệ thống quản lý vùng trời, đài radar, máy thông tin quân sự, máy bay không người lái… đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 9 trên thế giới có khả năng sản xuất các thiết bị này.
Những kết quả kinh doanh về lĩnh vực nghiên cứu sản xuất công nghệ cao cũng cho thấy thành quả của việc khởi tạo thực tại mới với những sản phẩm “Made by Viettel”. Trong 2 năm 2017-2018, tổng doanh thu từ lĩnh vực nghiên cứu sản xuất của Viettel đạt 17.400 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 5.250 tỷ đồng.
Và ngày 10/5, Viettel đã thực hiện thành công cuộc gọi 5G đầu tiên, đưa tên Việt Nam vào danh sách những quốc gia thử nghiệm 5G sớm nhất thế giới. Điều này đồng thời cũng nhắc nhở Viettel về sứ mệnh sẽ đưa đất nước bước cùng nhịp với công nghệ của thế giới chứ không còn đi sau như trước.