Sài Gòn chuyện đời của phố: Kiếm sống ở Sài Gòn trước 1945

04/03/2015 04:00 GMT+7

Năm 1941, một thanh niên gần tuổi đôi mươi ở làng Hướng Phương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình vừa thi đậu sơ học yếu lược xong. Lúc đó, trong làng của anh, một số người nhắc đến Sài Gòn là nơi dễ làm ăn, dễ kiếm tiền và hấp dẫn với nhiều thú vui.

Năm 1941, một thanh niên gần tuổi đôi mươi ở làng Hướng Phương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình vừa thi đậu sơ học yếu lược xong. Lúc đó, trong làng của anh, một số người nhắc đến Sài Gòn là nơi dễ làm ăn, dễ kiếm tiền và hấp dẫn với nhiều thú vui.

Chân dung hồi trẻ của ông Lịnh và trang hồi ký cũ về những ngày kiếm sống ở Sài Gòn -  Ảnh: T.L
Chân dung hồi trẻ của ông Lịnh và trang hồi ký cũ về những ngày kiếm sống ở Sài Gòn
-  Ảnh: T.L
Anh quyết định lên đường khám phá Sài Gòn. Trong suốt hai năm ở lại thành phố này dưới thời Pháp thuộc, anh va chạm với đủ người tốt kẻ xấu, học được những bài học về giá trị của công sức lao động, giá trị của sự trung thực...
Dưới đây là một đoạn hồi ký của người thanh niên năm xưa - ông Đặng Ngọc Lịnh, viết riêng cho gia đình trước khi mất năm 2004 tại California, Mỹ. Trước khi sang Mỹ năm 1994, ông sống tại hẻm 231 đường Lê Văn Sỹ, P.14, Q.Phú Nhuận. Đọc lại phần hồi ký này, ta có thể hình dung phần nào cuộc sống, sinh hoạt, không khí làm ăn cần mẫn của vùng đất Sài Gòn bảy mươi năm trước. Trong đó, luôn có phần cho người nhập cư nào có ý chí vươn lên, thay đổi cuộc sống.
“...Tôi đi Sài Gòn bằng hỏa xa lên ở ga Minh Lễ. Tôi hằng ngày đi lang thang hết đường phố này đến đường phố khác xem ngoài cổng nhà ai có treo giấy mướn người như tôi là vào xin. Đi qua dòng tu kín phía sau nhà Bưu điện Sài Gòn có treo giấy cần một đứa vào làm cỡ tuổi tôi, vào đây xin và được việc. Lại biết trong này có Cu Cư người làng mình nữa.
Công việc của tôi như sau: Sáng 4 giờ ra giúp xà ích cho xe ra, cặp ngựa vào và lên xe ngồi với một bà phước người Pháp, mập, nói sọi tiếng Việt, ra chợ Bến Thành xách giỏ cho bà phước ấy đi các hàng trong chợ mua thực phẩm. Đầy giỏ, tôi đưa ra xe và lúc đó đã mua xong lại lên xe trở về nhà như cũ. Ngoài việc đi chợ buổi mai, cả ngày nhổ cỏ ở các bồn hoa và ngoèo xoài trong vườn tu viện. Lương tháng 10 đồng Đông Dương.
Tôi làm được độ nửa năm vẫn lương 10 đồng. Một buổi sáng tôi ngủ quên ra trễ không kịp giúp thắng xe ngựa, bị bà phước ấy cự, tôi cự lại... và thấy việc xách giỏ cho bà phước đi chợ chẳng thú gì cho tuổi bước vào thanh niên đầy hứa hẹn này. Tôi xin thôi việc.
Lại đi lang thang kiếm việc. Đến một nhà máy cà rem, có dán giấy cần người. Tôi vào xin và được việc. Làm phụ người thợ chính làm cà rem cây. Làm được ít lâu, hình như lương tháng 15 đồng Đông Dương. Sau đó không lâu, ông chủ ở Đa Kao đưa giấy lại, biểu các thanh niên trong hãng thi một bài chánh tả ngắn chữ Việt. Bốn năm thanh niên chỉ có tôi và anh Cương biết viết. Tôi, anh Cương viết bài dự thi. Qua ngày sau có xe đến và cho biết là tôi đậu, lên xe về Đa Kao làm việc khác. Ông chủ này là chủ tiệm cà rem và chỗ tôi đến là nhà hàng ăn, tức là gia đình ông chủ ở nhà sau. Ông người Việt nhưng nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ, có hai vợ là chị em ruột, bà nào cũng có con bồng cả. Tuy là chị em ruột nhưng ghen nhau quá cỡ. Tôi được ông chủ và hai bà chủ mến lắm vì thấy tôi khôi ngô và chất phác. Giao cho tôi hai việc rõ ràng:
Sáng độ 2 giờ ra phía trước đợi hai xích lô mối, khi hai xe này đến thì vào báo tin cho ông chủ. Ông chủ lên xích lô trước, tôi lên xích lô sau, qua nhà máy nước đá Khánh Hội. Đến đây, ông chủ đứng đợi còn tôi đến nhà người gác máy lấy chìa khóa mở cửa vào. Ông chủ ngồi bàn xem sổ sách và xem báo. Tôi ngồi một bàn nhỏ ghi chép vào sổ các xe ngựa đến nhận nước đá của hãng.
Xong việc, trời vừa sáng, tôi và ông chủ lại lên xích lô về nhà hàng ăn. Về đây ăn sáng xong là tôi phụ người bồi chính mở cửa hàng và dọn các bàn ăn. Cả ngày khách Việt, Pháp vào ăn rất đông. Nhà hàng này ở đối diện rạp ciné Đakao. Tôi phụ với anh bồi chính sẹc-via cho khách suốt ngày. Lúc khách để lại tiền lẻ cho bồi gọi là puốc-boa (pourboires), tôi phải giao cho bồi chính hưởng, tôi không được gì.
Có một buổi sáng anh bếp hàng ăn đến biểu tôi về theo. Khi về đến nhà, nó biểu tôi mở rương ra để khám, có sự chứng kiến của hai bà chủ và các người trong nhà. Tôi mở rương cho khám, chẳng có gì khác ngoài áo quần và ít tiền lẻ của tôi. Tôi hỏi tại sao khám rương tôi, tên đầu bếp nói là đêm ấy nó mất áo quần và tiền bạc, nghi tôi lấy. Thấy anh bồi chính và anh bếp đa nghi không đúng chỗ thì có ngày tính nóng trực của tôi sẽ có chuyện nên xin thôi việc.
Tôi lại đi lang thang kiếm việc. Đến nhà hàng ăn Khánh Hội, gặp hai anh em người Pháp chưa vợ là chủ nhà hàng (nó nói giỏi tiếng Việt), nhà hàng thiếu hai chỗ bồi. Tôi về rủ chú Đính về cùng làm.
Có một đêm đi qua rạp hát lớn tại đường Tự Do, chú Đính rủ tôi vào xem. Không biết đường nên chui vào lô riêng trên gác của viên Toàn quyền Đông Dương đang xem hát. Họ nghi là hai tên thích khách nên bọn lính kín và cảnh sát gác bảo vệ cho Toàn quyền bắt hai chú cháu tống vào Khám lớn mấy ngày. Truy mãi chỉ thấy là hai thanh niên vô sự xem hát vào coi cóp lạc chỗ mới tha. Chú Đính không biết có bị không, còn tôi bị mấy loi đau nhớ đời đến nay vẫn còn nhớ cảm giác đau.
Về nghỉ nhà anh chị Đạo vài ngày, tôi lại đi lang thang tìm việc. Tôi làm bồi cho vợ chồng anh Tây trên đường Tự Do, khu nhà bảy tầng. Lương tháng 40 đồng Đông Dương. Lúc đó 40 đồng đối với số người đi làm thuê là hạng cao đấy.
Tôi ở Sài Gòn độ 2 năm, khoảng 1941 - 1943. Làm ăn tiêu rồi còn dư gửi về nhà độ 200 đồng đến 300 đồng. Lúc tôi đi Sài Gòn, cha làm cái nhà ngói, còn hai mái ngói Tây ấy là do tiền tôi gửi về, lúc ấy 100 đồng Đông Dương là quý lắm”.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.