Lắt léo chữ nghĩa: Từ 'dấu sắc' sang 'không dấu'

22/12/2019 06:05 GMT+7

Trong lĩnh vực Hán Việt, thỉnh thoảng ta vẫn thấy có sự chuyển biến từ phù khứ sang phù bình, tức từ thanh điệu 5 sang thanh điệu 1, theo chính tả chữ quốc ngữ là từ dấu sắc sang không dấu.

 Nói là thỉnh thoảng chứ thực ra số lượng những trường hợp như vậy không phải chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Dưới đây là những dẫn chứng. Chúng tôi chỉ ghi kèm chữ Hán trong những trường hợp thực sự cần thiết. Và cũng chỉ nêu những điệp thức cùng vần (như cúng - cung, đái - đai) chứ không nêu những điệp thức khác vần (như cứ - cưa, phóng - buông).
Cúng trong cúng dường, cúng dàng cũng chính là cung trong cung dưỡng. Cúng cũng là âm Hán Việt chính tông vì chữ đang xét có hai âm: cung cúng.
Đái trong cân đái chính là đai trong cân đai ở câu Kiều thứ 2273 (Rỡ mình lạ vẻ cân đai).
Đối trong tương đối, đối đáp chính là đôi trong cặp đôi hoàn hảo, đôi co, đôi hồi. Nói thêm: Đôi hồi là điệp thức của đối thoại [對話], biết rằng theo đúng thiết âm thì chữ thoại [話] phải đọc là họa hoặc hoại. Truyện Kiều có câu: “Sự đâu chưa kịp đôi hồi”. Đào Duy Anh giảng đôi hồi là “quanh quẩn, quanh quẩn với nhau” chưa đúng. “Sự đâu chưa kịp đôi hồi” chẳng qua là “sự đâu chưa kịp trao đổi với nhau” mà thôi. Đôi hồi là “đối thoại”, là trao đổi ý kiến, là nói chuyện tâm sự, tâm tình với nhau.
Đông trong đông đặc không phải là đông trong xuân, hạ, thu, đông. Từ điển tiếng Việt 2008 của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên giảng từ đông này là “chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn”. Đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [凍] mà âm Hán Việt là đống, có nghĩa là “rất lạnh - nước đóng lại thành băng”. Mathews’ Chinese - English Dictionary dịch là “to freeze; icy; cold”; còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S.Couvreur thì dịch là “geler”.
Khuyến trong khuyến cáo chính là khuyên trong khuyên can.
Tán trong giải tán chính là tan trong tiêu tan.
Tấu trong tấu sớ chính là tâu trong tâu lên hoàng thượng.
Thán trong tán thán chính là than trong than thở.
Thán trong thán khí chính là than trong than củi.
Kế trong kế toán chính là trong thống kê.
Tháothao đều là âm của chữ [操]. Trước kia, trong Nam nói chơi thể tháo, bây giờ là thể thao.
Thuế [稅] trong thuế khóa chính là thuê trong thuê mướn.
Tín trong tín điều, tín hiệu chính là tin trong tin tức, thông tin.
Tráng [壯] là người trai trẻ, như trong trai tráng, chính là trang trong trang thanh niên.
Tránh [幀] là một từ chỉ đơn vị, dùng cho những bức tranh, tấm ảnh, chính là tranh trong tranh ảnh. Đây cũng chính là tranh trong cỏ tranh (gianh). Cỏ tranh là cỏ dùng để đánh tranh lợp nhà, còn tranh lợp nhà là “tấm kết bằng cỏ tranh, rạ... để lợp nhà”, như đã giảng trong từ điển Hoàng Phê.
Tứ trong tứ quý, tứ phương chính là tư trong một phần tư, thứ tư, tư bề.
Quá trong quá độ, quá giang chính là qua trong qua sông, qua ngày đoạn tháng.
Phá [破] trong xung phá chính là pha trong xông pha. Phá còn có nghĩa là “xẻ ra, chẻ ra”, mà Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S.Couvreur dịch là “fendre”. Với nghĩa này thì đó cũng là pha trong dao pha mà từ điển Hoàng Phê giảng là “dao lưỡi lớn, dùng được nhiều việc như cắt, thái, bằm, chặt, chẻ...”; còn pha thì được giảng là “cắt, xẻ một khối nguyên ra thành từng phần để tiện sử dụng vào một mục đích nào đó”. Cuối cùng, với cái nghĩa mà Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng là “khuấy khỏa” - đây là cái nghĩa trong chọc phá, phá đám - thì phá cũng là pha trong pha trò, pha tiếng.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.