“Bé Đi” anh hùng

21/12/2009 15:45 GMT+7

“Đi bất kỳ nơi đâu tổ chức cần, làm tất cả những gì tổ chức yêu cầu và làm thật tốt” là phương châm sống mà ông Ngô Tùng Chinh - vụ trưởng, trưởng cơ quan đại diện phía Nam Ban Thi đua khen thưởng trung ương - đã chọn từ ngày bắt đầu đời hoạt động cách mạng năm 12 tuổi.

“Tôi chọn cho mình một bí danh là Bé Đi (ngoài ra còn có bí danh khác là Út Giang) chính là để thể hiện với các cô chú, các anh chị sự sẵn sàng ấy”, ông Chinh nói. Và Bé Đi đã làm rất tốt tất cả nhiệm vụ được giao để rồi hơn 40 năm sau, ngày 12-12-2009, ông Chinh được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Huyền thoại tuổi thiếu niên

Sinh ra ở 18 Thôn Vườn Trầu (xã Thới Tam Thôn, Hóc Môn, TP.HCM) trong gia đình có truyền thống cách mạng, Bé Đi lớn lên với những câu chuyện thấm đẫm chất bất khuất của khởi nghĩa Nam kỳ và gia nhập Ban quân sự Thành đoàn như một lẽ tự nhiên.

Cũng tung tăng chân sáo đến trường nhưng trong cặp Bé Đi lại chứa nhiều truyền đơn, biểu ngữ, tài liệu. Cũng loay hoay tháo ráp, cất giấu như mọi cậu bé nghịch ngợm khác nhưng đồ chơi của Bé Đi lại là dây điện, kíp nổ, nụ xòe. Cũng lang thang phố phường nhưng ánh mắt Bé Đi lại ghi nhận tất cả đặc điểm địa hình và quy luật sinh hoạt của đối phương để tìm thời cơ hành động. “Và thời cơ là do mình tạo ra”, Bé Đi kết luận và tự mình tổ chức trận đánh đầu tiên.

Nhìn lại đời mình, ông Ngô Tùng Chinh trầm ngâm: “Quãng thời gian tôi hoạt động trong ban chỉ đạo ở nhà lao thiếu nhi Đà Lạt là sôi nổi, chủ động nhất, tự tổ chức, tự chịu trách nhiệm, tự đưa ra những quyết định của riêng mình. Chỉ một thời gian ngắn nhưng những điều rèn luyện được ở đây đã đi theo tôi cả cuộc đời”.

Sau giờ học, cậu bé lượn xe vòng quanh ty chiêu hồi, nơi tập trung những kẻ phản bội đã gây nhiều tổn thất cho lực lượng cách mạng hoạt động nội thành. Vài lần cậu dựng xe đạp ngay trước cổng, đi bộ sang quán nước mía bên đường. Lần khác lại gác xe ngay sát vách tường giáp trường học bên cạnh. Không ai để ý mấy đứa học sinh. Trong đầu Bé Đi lóe lên một phương án.

Giữa trưa, ty chiêu hồi tập hợp đông đúc. Một cô nữ sinh áo dài tha thướt dắt chiếc xe đạp gác chiếc cặp căng phồng dựng bên mé tường đứng chờ bạn. Một cậu học sinh khác cũng lách khỏi đám đông đang tan trường, dựng xe ngay khoảng trống trước ty chiêu hồi. Hai chiếc xe máy trờ tới, hai người nhảy lên lao đi. Bỗng chiếc xe đạp của cô gái phát nổ, phá sập một mảng tường. Những người bên trong túa ra cổng thì trái nổ trên chiếc xe đạp của cậu bé đã chờ sẵn, nổ tung...

Sau nhiều trận đánh, Bé Đi bị bắt năm 15 tuổi. Vào Chí Hòa, cậu được học những bài học mới: bảo vệ khí tiết, chống chào cờ, chống đàn áp, đòi quyền dân sinh, dân chủ... Sau vài câu đối đáp, viên công tố thốt lên: “Tên tù thiếu nhi này là một tên đảng viên cứng đầu”. Bé Đi điềm tĩnh: “Tôi chưa phải đảng viên, tôi chỉ đang phấn đấu để trở thành đảng viên cộng sản”. Cậu bé bị tuyên án 10 năm khổ sai, 5 năm biệt xứ.

Bị đưa đến trung tâm cải huấn thiếu nhi Đà Lạt, ngay ngày đầu tiên Bé Đi đã kêu gọi các bạn tù vừa chuyển về từ Côn Đảo, Chí Hòa, Đà Nẵng cùng chống chào cờ. Các cậu bé đồng lòng nghiến răng chịu đựng đòn roi trút xuống, những thùng nước lạnh giội vào trong cái lạnh cắt da, những vắt cơm ngày càng nhỏ cùng vài hột muối. Rồi để đấu tranh với những đòn đàn áp ngày càng dã man, những chiến sĩ tuổi 15 quyết định sử dụng hình thức đấu tranh quyết liệt nhất: tự mổ bụng. Tổ chức quyết định năm nhưng có tới chín người xung phong, phải bắt thăm xem ai sẽ được “may mắn”. Rồi diệt ác, rồi đòi quyền làm chủ nhà lao...

Trong hai năm, tinh thần bất khuất, chấp nhận gian khổ, hi sinh của những chiến sĩ nhỏ đã làm chùn những bàn tay tàn bạo. Tư liệu lưu trữ ghi lại: “Bọn can nhi bạo động và cử đại diện đòi hỏi ban quản đốc phải chấp thuận ba yêu sách: 1. Bãi bỏ việc dùng tù trị tù; 2. Cho chúng chơi chung toàn khu; 3. Cho chúng cắt đặt người làm công tác tạp dịch, tự sắp xếp chỗ nằm. Ba yêu sách này được ông quản đốc chấp thuận trước vị đại diện quân trấn Đà Lạt”.

Bé Đi tổ chức đợt vượt ngục lần 7, cuối cùng và lớn nhất trong lịch sử nhà lao thiếu nhi Đà Lạt. Rút kinh nghiệm những lần tự phát, công tác chuẩn bị kéo dài cả tháng, tỉ mỉ từ phương án, lương thực, trang phục đến móc nối với cơ sở bên ngoài. Dự kiến đêm ấy thực hiện thì bất ngờ buổi sáng Bé Đi cùng nhiều anh em khác bị chuyển về nhà lao Tân Hiệp (Quảng Ngãi).

Nửa đêm hôm đó kế hoạch vẫn được tiến hành, 13 người đã vượt qua lớp trần nhà có hàng rào kẽm dẫn điện, hai ba lượt rào kẽm gai, những vệt đèn pha, tiếng bước chân của lính tuần tra... để về với tự do. Chỉ sau đó một tháng, trung tâm cải huấn thiếu nhi Đà Lạt mà thực chất là một nhà tù buộc phải giải tán.

Ông Chinh (thứ hai từ phải qua) gặp lại các bạn tù tại nhà lao thiếu nhi Đà Lạt - Ảnh: N.H.T.

Thử thách trong thời bình

Hòa bình, trở về công tác tại Thành đoàn, Ngô Tùng Chinh lao vào học trong tất cả khoảng thời gian còn lại. Anh lần lượt lấy bằng cử nhân kinh tế, cử nhân luật, cử nhân chính trị, thạc sĩ xây dựng Đảng..., dốc sức tích lũy kiến thức để hoàn tất công việc được giao. Vậy nhưng những thử thách trong thời bình còn khắc nghiệt hơn cả chiến tranh.

Những ngày đầu thập niên 1980, Ngô Tùng Chinh làm trưởng phòng tổng hợp nhu cầu nhà của Sở Nhà đất TP.HCM. Tiếp nhận, đọc, phân loại hồ sơ, tiếp khách. Có bác cán bộ, cựu chiến binh đầu hai thứ tóc khúm núm “xin anh cấp cho tôi căn nhà”, lại có bà má đến mắng “các anh không công bằng”. Đêm về Chinh mất ngủ. “Tôi nghĩ cái ghế mình ngồi, công việc mình làm đã sinh ra những cảnh trái khoáy như vậy”.

Rồi thỉnh thoảng mở hộc tủ lại thấy hàng xấp tiền, vàng nhét trong đó từ lúc nào, Chinh gọi người đến lập biên bản mà trong lòng hoang mang. Anh nhớ những ngày tuyệt thực trong xà lim, lả đi vì đói nhưng vẫn cứng lòng trước một mâm cơm nóng. “Nhưng trong tù có đồng đội, còn bây giờ chỉ có một mình. Biết đâu khi nào đó mình lại “ngứa tay” vì bản thân gia đình mình cũng túng thiếu. Nghĩ như vậy mà tôi hoảng hốt, xin ngưng việc, tiếp tục đi học trường Đảng cao cấp ở Nga”.

Tốt nghiệp về, Ngô Tùng Chinh lại tiếp tục được giao các trọng trách tại Co-op Mart, Công ty du lịch Thanh niên TP.HCM, Công ty liên doanh Indochina, Công ty cổ phần Đầu tư kinh doanh nhà (Intresco). Những năm đầu 2000, thị trường nhà đất nóng hừng hực, cổ tức của Intresco tăng mạnh. Nhiều lần tổng giám đốc Ngô Tùng Chinh thẳng thừng từ chối nhiều khách hàng, nhiều hợp đồng có lợi nhuận cao nhưng có điều khoản bất lợi cho Nhà nước, người dân. Công ty được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì, cá nhân tổng giám đốc Ngô Tùng Chinh được tặng Huân chương Lao động hạng ba. Mọi việc đang thuận buồm xuôi gió thì một lần nữa ông xin... chuyển công tác.

“Thị trường nhà đất luôn là chỗ hái ra vàng nhưng tôi nghĩ phải làm sao để nó phục vụ được cả người nghèo. Tôi chuẩn bị một dự án xây dựng nhà ở cho người dân có thu nhập thấp bằng cách bù lỗ từ các dự án khác. Nhưng rồi tôi lại được điều động sang vị trí khác, dự án bỏ dở. Nhận ra cốt của mình không phải là làm kinh doanh, tôi xin chuyển công tác”.

Ngay cổng vào cơ quan phía Nam của Ban Thi đua khen thưởng trung ương, một lời dạy của Bác Hồ được in rất to: “Những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Ông Ngô Tùng Chinh lại trầm ngâm: “Tôi nhận nhiệm vụ ở cơ quan này năm 2005, đúng lúc các yếu tố thoái trào hiện ra rõ ràng nhất. Có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường không phải lúc phát động thi đua, rằng các phong trào chỉ là hình thức. Nhiệm vụ của tôi là chứng minh thi đua vẫn cần thiết và các phong trào phải đi vào thực tế đời sống. Quả là không đơn giản, nhưng tôi tự bảo mình vẫn sẽ phải chiến thắng, như ngày xưa...”.

6 nhân vật trên Tuổi Trẻ được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Trong đợt kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, sáu nhân vật từng xuất hiện trên Tuổi Trẻ được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, gồm có ba ông: Ngô Tùng Chinh (hiện là vụ trưởng - trưởng cơ quan đại diện phía Nam Ban Thi đua khen thưởng trung ương), Mai Thanh Minh (hiện là phó giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng), Đặng Bảo Xy (loạt bài “Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt”, Tuổi Trẻ 2 đến 4-9-2007) đã có thành tích xuất sắc trong bảo vệ khí tiết và đấu tranh tại nhà lao thiếu nhi Đà Lạt 1971-1973; và ba liệt sĩ: Nguyễn Minh Hoàng, Phạm Minh Trung, Lê Văn Tăng thuộc lực lượng an ninh vũ trang khu Sài Gòn - Gia Định, đã anh dũng bảo vệ an toàn Bộ tư lệnh tiền phương 2 trong chiến dịch Mậu Thân 1968 (bài “Những câu chuyện Mậu Thân 1968 - Chuyện ở Phú Thọ Hòa”, Tuổi Trẻ 30-1-2008).

Nhân dịp này nhà lao thiếu nhi Đà Lạt được đón nhận bằng di tích lịch sử quốc gia.

Theo Phạm Vũ / Tuổi Trẻ

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.