Trong giai đoạn này, việc xạ trị có thể vẫn được tiếp diễn, nhưng phải thận trọng và xem xét kỹ lưỡng tùy theo bệnh trạng. Một nghiên cứu vừa được công bố tại Đức đã nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc cẩn trọng với áp dụng xạ trị.
Những số liệu đáng suy nghĩ
Trong cuộc trò chuyện với hãng tin Reuters, tiến sĩ Stephan Gripp thuộc bệnh viện Đại học Dusseldorf, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Tuổi thọ của các bệnh nhân ung thư được bác sĩ ước đoán quá cao trong đa số trường hợp. Những ước đoán quá lạc quan là nguy hiểm đối với các bệnh nhân vì họ kêu nài bác sĩ áp dụng lịch trình chiếu xạ kéo dài”. Ông nói thêm rằng các lịch trình này thường không được hoàn thành do bệnh nhân qua đời hoặc ngưng điều trị.
Đối với các bệnh nhân ở giai đoạn cuối của bệnh ung thư, các bác sĩ thường cho những liều xạ trị nhỏ để giúp giảm nhẹ sự đau đớn liên quan đến bệnh ung thư và các triệu chứng khác. Mục đích không phải là để giúp bệnh nhân khỏi bệnh hoặc làm cho bệnh chậm tiến triển, mà là để cung cấp chất lượng cuộc sống tốt hơn trong những ngày cuối đời. Nhưng xạ trị giảm đau có thể có tác dụng phụ, và với nhiều người, nó đem lại rất ít lợi ích ở giai đoạn cuối của bệnh.
Trong số 216 bệnh nhân ung thư ở giai đoạn cuối được chỉ định xạ trị giảm đau trong thời gian từ tháng 12.2003 đến tháng 6.2004, 33 người đã qua đời trong vòng 30 ngày sau khi được tiếp nhận vào khoa ung bướu xạ trị của bệnh viện Đại học Dusseldorf. Phần lớn trong số họ (91%) được chữa bằng xạ trị giảm đau, phân nửa trong số họ có 60% thời gian còn lại của cuộc đời tiếp nhận xạ trị.
Hồ sơ y khoa cho thấy xạ trị giảm đau, về mặt lý thuyết sẽ làm giảm nhẹ các triệu chứng của bệnh ung thư, trong thực tế đã dẫn đến những triệu chứng tồi tệ hơn ở hơn phân nửa bệnh nhân (52%). Kết quả là nhiều người sớm từ bỏ xạ trị. “Trong cuộc nghiên cứu của chúng tôi, gần như mọi bệnh nhân đều ngưng xạ trị sớm. Quy mô của vấn đề khiến cho tôi ngạc nhiên. Việc chiếu xạ một lần sẽ là sự chọn lựa tốt hơn ở các bệnh nhân này”, ông Gripp nói.
Bảy bệnh nhân (23%) qua đời trong lúc xạ trị. Chỉ 26% bệnh nhân nhận xạ trị giảm đau thực sự bớt đau đớn.
Cần ước đoán chính xác hơn
Nghiên cứu cũng cho thấy các bác sĩ chuyên trị ung thư cần các phương pháp ước đoán "thời gian còn lại" của bệnh nhân tốt hơn. Trong nghiên cứu trên, nhiều bác sĩ ước đoán lạc quan hơn thực tế. Thời gian sống sót được ước đoán chính xác là 30 ngày ở nhiều nhất là 16% bệnh nhân. Cứ 5 bác sĩ thì 1 người ước đoán một cách không chính xác là bệnh nhân còn hơn 6 tháng để gần gũi với người thân.
Nghiên cứu trên làm rõ những giới hạn hiện tại trong khả năng của bác sĩ khi dự đoán cái chết của bệnh nhân ngay cả khi nó đã đến rất gần, cũng như khi cung cấp liệu pháp giảm đau thích nghi hiệu quả với thời gian còn lại của bệnh nhân. Khi nói đến liệu pháp giảm đau, một sự dự đoán chính xác thời gian sống sót của bệnh nhân là rất quan trọng nhằm tránh việc chữa trị không hiệu quả và tốn kém. Ngoài ra, những ước đoán quá mức về thời gian sống sót có thể góp phần vào việc sử dụng liệu pháp xạ trị không thích hợp, một sự phung phí thời gian đáng kể.
Đối với các bệnh nhân ở giai đoạn cuối, các bác sĩ thường có xu hướng cung cấp những đánh giá lạc quan, và những gì họ nói với bệnh nhân còn lạc quan hơn nữa. Các chuyên gia Đức cho rằng các phương pháp đánh giá chính xác hơn thời gian sống sót của bệnh nhân là cần thiết vì nó sẽ đưa đến những biện pháp chữa trị phù hợp với yêu cầu.
Trong khi đó, liệu có những việc mà bệnh nhân và các thành viên gia đình họ có thể làm để đảm bảo liệu pháp xạ trị giảm đau phù hợp vào giai đoạn cuối cuộc đời? Tiến sĩ Gripp khẳng định: “Tôi nghĩ là không có. Những ước đoán về thời gian sống sót thực tế là điều kiện tiên quyết để thiết kế liệu pháp xạ trị giảm đau cho từng bệnh nhân riêng rẽ”.
Trùng Quang
Bình luận (0)