Một bạn đọc ở Mỹ đã viết về những kinh nghiệm của ĐH Mỹ trên cơ sở các vấn đề của Việt Nam.
ĐH Giao thông Thượng Hải, Trung Quốc trong ba năm gần đây đã xếp loại các trường ĐH trên thế giới dựa theo một loạt các tiêu chuẩn khách quan như số lượng giải Nobel và bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên đề nổi tiếng. Có tới 17 trong số 20 trường ĐH đứng đầu danh sách đó là đại học của Mỹ, và có tới 35 trường của Mỹ nằm trong top 50. Các ĐH của Mỹ hiện đang tuyển dụng 70% trong số những người đoạt giải Nobel trên toàn thế giới. Theo như một cuộc khảo sát tiến hành năm 2001 thì họ đã "sản xuất" ra khoảng 30% số lượng bài báo khoa học và công trình nghiên cứu; và 44% trong tổng số các tham luận được trích dẫn thường xuyên nhất.
Cùng một thời điểm, tỷ lệ phần trăm dân số học ĐH của Mỹ cao hơn hầu như bất cứ quốc gia nào, khoảng chừng 20% sinh viên thuộc các gia đình có thu nhập bằng hoặc thấp hơn mức đói nghèo. Một nửa trong số họ làm thêm ngoài giờ, và 80% sinh viên làm việc để tự nuôi sống bản thân.
Tại sao người Mỹ lại thành công được như vậy? Rõ ràng sự giàu có cũng đóng một vai trò nhất định. Mỹ tiêu tốn chi phí để đào tạo một sinh viên nhiều gấp hai lần mức trung bình do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD đưa ra (vào khoảng 22.000 đô la so với mức trung bình 10.000 đô la, tính ở năm 2001). Lịch sử lâu đời cũng đóng một vai trò nào đó. Người Mỹ trước giờ vẫn có niềm say mê đối với giáo dục ĐH. Những nhà truyền giáo đã lập nên Trường Harvard College năm 1636, chỉ hai thập kỷ sau khi đặt chân đến vùng New England. Tuy vậy, nguyên nhân chính giải thích cho thành công của Mỹ lại nằm trong cách tổ chức. Đây là điều mà các quốc gia khác có thể bắt chước được.
Ba nguyên tắc phổ biến
Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ đóng một vai trò rất hạn chế. Nước Mỹ không có một kế hoạch từ trung ương dành cho các trường ĐH. Họ không coi giảng viên, giáo sư ĐH là các viên chức nhà nước, như thường thấy ở các nước khác. Thay vì vậy, các trường ĐH có hàng loạt các nguồn tài trợ, từ chính phủ liên bang cho đến các tổ chức tôn giáo, từ các sinh viên, cựu sinh viên rủng rỉnh tiền bạc, cho đến các nhà tài trợ hào phóng như Ezra Cornell, Cornelius Vanderbilt, Johns Hopkins và John D.Rockefeller. Truyền thống cho và nhận tài trợ này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong năm tài chính 2004 các nhà tài trợ đã đổ vào các ĐH ở Mỹ 24,4 tỉ đô la. Sự quản lý giới hạn của nhà nước ở đây không có nghĩa là nhà nước quản lý một cách dửng dưng, trên hết là quản lý vĩ mô. Chính phủ liên bang đã nhiều lần bắt tay can thiệp vào các ĐH, chẳng hạn như bộ luật Morrill về việc cấp đất đai ban hành năm 1862 đã tạo ra các trường ĐH được cấp đất để xây dựng. Nhà nước rót tiền vào các trường cao đẳng cộng đồng. Dự luật GI năm 1946 đã mang các trường ĐH đến tầm tay của mọi người. Chính phủ liên bang vẫn tiếp tục rót hàng tỉ đô la vào hoạt động khoa học và nghiên cứu.
Nguyên tắc thứ hai là cạnh tranh. Các trường đại học cạnh tranh với nhau về mọi thứ, từ sinh viên cho đến giáo sư và cả các ngôi sao bóng rổ. Các giáo sư cạnh tranh để giành được các khoản tài trợ cho nghiên cứu từ phía chính quyền. Các sinh viên thì cạnh tranh về các khoản học bổng cao đẳng, đại học hoặc các học bổng nghiên cứu sinh. Điều này có nghĩa là các học viện thành công không thể nghỉ ngơi (ngủ quên) trong vinh quang.
Nguyên tắc thứ ba là phải hữu dụng. Ở ĐH Wisconsin: "Khi cây củ cải của bất kỳ nông dân nào có vấn đề, họ gửi ngay một giáo sư đến để điều tra sự cố một cách rất khoa học". Henry SteeleCommager, một nhà sử học người Mỹ thế kỷ 20, lưu ý rằng một người Mỹ bình thường ở thế kỷ 19 đã coi giáo dục như niềm tin tín ngưỡng của họ miễn là nó "thiết thực và sinh lời". Sự nhấn mạnh hai chữ "sinh lời" giữ nguyên nét đặc trưng nổi bật của nền văn hóa ĐH Mỹ. Người Mỹ đã tiên phong trong nghệ thuật kết nối giữa giới học giả và công nghiệp. Các trường ĐH Mỹ mỗi năm kiếm được hơn một tỉ đô la nhờ vào tiền bản quyền phát minh và phí nhượng quyền. Hơn 170 trường ĐH có các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh và hàng tá các trường khác có các quỹ đầu tư của riêng họ.
Sự đa dạng của "hệ thống"
Sự đa dạng của hệ thống ĐH Mỹ cho phép họ cung cấp một hệ thống phong phú những loại học viện khác nhau. Chỉ khoảng 100 trong tổng số 3.200 ĐH của Mỹ là ĐH nghiên cứu. Các trường ĐH công lập đầu ngành như Michigan, Texas và Berkeley, California đã cung cấp một nền giáo dục tầm cỡ thế giới với một cái giá gần như cho không. Đa phần còn lại là các trường cao đẳng cộng đồng, có các nghiên cứu nhỏ và chỉ cung cấp các khóa học dài hai năm. Tuy nhiên, những sinh viên có khả năng vẫn có thể chuyển tiếp từ các trường cao đẳng hai năm sang một trường ĐH nghiên cứu có uy tín.
Các trường tư thục với học phí cao ngất ngưởng, cũng có chính sách dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn như ĐH Harvard hiện giảng dạy miễn phí cho những sinh viên mà thu nhập của gia đình ít hơn 40.000 đô mỗi năm, và giảm học phí đáng kể cho các sinh viên đến từ các gia đình có thu nhập vào khoảng 40.000 đến 60.000 mỗi năm. Năm rồi, cũng có một số sinh viên Việt Nam được nhận thẳng vào Harvard, Brown, Princeton, Yale với học bổng toàn phần. Các trường ĐH hàng đầu khác cũng có chính sách ưu tiên cho các vận động viên, những người nộp đơn sớm và con cái của các cựu sinh viên của trường.
B.C
Bình luận (0)