Trong khoảng thời gian đó, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng được ghi đậm nét vào lịch sử của Đảng và của dân tộc. Nhân dân ta đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn chồng chất, giành được nhiều thắng lợi trên lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Song, chúng ta cũng đang gặp những khó khăn mới. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta cũng phạm nhiều khuyết điểm.
Tình hình khủng hoảng về kinh tế - xã hội ở nước ta đã xuất hiện. Thực trạng của đất nước đang đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, vạch rõ những nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương và biện pháp lớn để khai thác tiềm năng của đất nước, khắc phục những khó khăn và khuyết điểm, giải quyết đúng những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, về sản xuất và đời sống... nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Thời gian: từ 27 đến 31.3.1982 Địa điểm: Thủ đô Hà Nội Số lượng Đảng viên trong cả nước: 1.727.000 Số lượng tham dự Đại hội: 1.033 đại biểu Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 116 ủy viên Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 ủy viên Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam Ngày 14.7.1986, Ban Chấp hành Trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10.7.1986. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V đã họp 11 lần để quyết định các vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có vấn đề tổ chức lại sản xuất, xây dựng cơ chế quản lý mới trong phân phối lưu thông, thị trường, giá, lương, tiền. Khẳng định dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Đây là quyết tâm chiến lược lớn của Đảng ta trong giai đoạn này. |
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 15 đến ngày 24.3.1982 và họp công khai từ ngày 27 đến ngày 31.3.1982, tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
Trong số đại biểu có 14 đảng viên đã từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng; hơn 40% đại biểu là những đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế; 102 đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện của 27 tộc người trên các tuyến đầu ở vùng biên giới phía bắc và tây nam; 79 đại biểu là Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; 1/3 đại biểu có trình độ đại học và trên đại học, 26 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 14 giáo sư, phó giáo sư và nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật... Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời Khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đọc báo cáo về nhiệm vụ kinh tế và xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về xây dựng Đảng. Nhiều đại biểu của Đại hội đã đọc tham luận, nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế đọc lời chào mừng.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã được Đại hội nhất trí thông qua. Đại hội khẳng định: "Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam". Song, chúng ta đang đứng trước những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội, đặc biệt "Trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt"... Những khó khăn đó trước hết là do nguồn gốc sâu xa của tình hình đất nước, xã hội... gây ra. Song, mặt khác, khó khăn đó còn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội tạo nên. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội trong những năm qua. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự phê bình về những khuyết điểm và sai lầm của mình trước Đại hội.
Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Báo cáo nêu rõ trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau.
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đại hội lần thứ IV, vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm trong thập kỷ 80. Những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng quát cho những năm đó:
1.Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu...
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
4. Đáp ứng những nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hóa, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Về xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị nêu rõ: "Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng".
Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức là: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh, Lê Văn Lương, Chu Huy Mân, Võ Chí Công, Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Chí, Đỗ Chính, Cao Đăng Chiếm, Nguyễn Côn, Lê Quang Đạo, Nguyễn Thị Định, Trần Độ, Trần Đông, Ngô Duy Đông, La Lâm Gia, Song Hào, Vũ Thị Hồng, Lê Khắc, Bùi Thanh Khiết, Nguyễn Lam, Trần Lâm, Trần Lê, Trần Văn Long, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Thị Như, Đỗ Văn Nguyện, Vũ Oanh, Trần Phương, Trần Quyết, Trần Quỳnh, Trần Văn Sớm, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đặng Thí, Nguyễn Hữu Thụ, Nguyễn Đức Thuận, Đào Duy Tùng, Hoàng Tùng, Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Vịnh, Trần Xuân Bách, Nguyễn Đức Bình, Lê Đức Bình, Nguyễn Thị Bình, Vũ Đại, Trần Hữu Đắc, Nguyễn Hoà, Đinh Nho Liêm, Vũ Mão, Bình Phương, Vũ Quang, Lê Đức Thịnh, Nguyễn Văn Chính, Lê Quang Chữ, Y Ngông Niek Đam, Nguyễn Đáng, Lê Văn Hiền, Trần Quốc Hương, Nguyễn Xuân Hữu, Trần Kiên, Vũ Đình Liệu, Vũ Ngọc Linh, Trường Minh, Y Một, Hồ Nghinh, Lê Văn Phẩm, Bùi San, Nguyễn Văn Sỹ, Bùi Quang Tạo, Lê Viết Thắng, Lê Phước Thọ, Mai Chí Thọ, Trần Vĩ, Phạm Bái, Nguyễn Kỳ Cẩm, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Hớn, Phạm Văn Hy, Hoàng Nó, Hoàng Quy, Phan Minh Tánh, La Thăng, Võ Trung Thành, Vũ Thắng, Hoàng Minh Thắng, Lâm Văn Thê, Vương Dương Tường, Lê Đức Anh, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Đặng Vũ Hiệp, Đoàn Khuê, Vũ Lập, Bùi Phùng, Nguyễn Quyết, Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Nguyễn Thế Bôn, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Nam Khánh, Trần Văn Phác.
Có 36 ủy viên dự khuyết là Nguyễn Chân, Nguyễn Cảnh Dinh, Lê Văn Dỹ, Phan Xuân Đợt, Hồng Hà, Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Hưng, Đặng Hữu, Nguyễn Khánh, Đinh Văn Lập, Trần Đức Lương, Chu Tam Thức, Phan Ngọc Tường, Lê Văn Triết, Nguyễn Tiến Trịnh, Hà Xuân Trường, Nguyễn Chí Vu, Phạm Thế Duyệt, Trần Thị Đường, Vũ Ngọc Hải, Vũ Tuyên Hoàng, Phan Thanh Liêm, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Văn An, Lê Đại, Trần Văn Điền, Hà Trọng Hòa, Hà Thiết Hùng, Phan Văn Khải, Trần Tấn, Đoàn Duy Thành, Đoàn Thanh Vị, Nguyễn Thị Ngọc Liên, Tráng A Páo, Nguyễn Hòa, và Hồ Quang Hóa.
Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức là: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm; và hai ủy viên dự khuyết là Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sĩ Nguyên. Tổng bí thư là Lê Duẩn.
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng... nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh "Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân".
Sau Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã mở nhiều hội nghị để tiếp tục đi sâu đánh giá tình hình, đề ra nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể để chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Tháng 7.1982, Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định chương trình công tác toàn khóa và quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đại hội lần thứ V.
Tháng 12.1982, Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội và mức phấn đấu cụ thể từ năm 1983 đến năm 1985. Hội nghị còn quyết định một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, về phân cấp quản lý kinh tế, về công tác xây dựng và tăng cường cấp huyện. Đối với vấn đề lưu thông phân phối, Trung ương chủ trương phải thiết lập cho được trật tự trong lĩnh vực này, nhanh chóng ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là đời sống của công nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang. Trước mắt cần phải nắm và tập trung nguồn hàng, quản lý chặt chẽ tài chính, tiền tệ và giá cả; mở rộng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý thị trường...
Tháng 6.1983, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ tư bàn về công tác tư tưởng và tổ chức. Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá những khuyết điểm về công tác tư tưởng và tổ chức là một trở ngại lớn đối với việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vạch ra các nhiệm vụ về công tác tư tưởng và tổ chức cấp bách cần tập trung giải quyết.
Tháng 12.1983, Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984 và quyết định những chủ trương và biện pháp chấn chỉnh mặt trận lưu thông phân phối.
Thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của những năm 80 là lĩnh vực khó khăn nhất và còn nhiều khuyết điểm; nhược điểm. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 7.1984) quyết định: phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo và mọi khả năng của cơ sở; tổ chức lại sản xuất, từng bước xây dựng cơ chế quản lý mới, phân công, phân cấp quản lý đúng đắn; giải quyết một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, đặc biệt là các lĩnh vực thị trường, giá, lương, tiền nhằm phục vụ tốt cơ sở, đồng thời giải quyết đúng mối quan hệ phân phối trong nền kinh tế quốc dân. Tháng 12.1984, Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1985 và công tác xây dựng huyện, tăng cường cấp huyện.
Tình hình kinh tế, nhất là thị trường, giá cả vẫn tiếp tục diễn biến xấu, tiền lương thực tế liên tục bị giảm sút. Vì thế, tháng 6.1985, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ tám để bàn về vấn đề giá, lương, tiền. Hội nghị quyết định: "Phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất, kinh doanh có hiệu quả". "Xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu - bao cấp trong giá và lương là yêu cầu cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đây là công tác trung tâm đột xuất của Đảng và Chính phủ năm 1985. Cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền lần này phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán thận trọng các phương án vững chắc gắn chặt với việc xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới. Đây là một quyết tâm chiến lược lớn của Ban Chấp hành Trung ương nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu - bao cấp trong giá và lương; quyết tâm đó đề ra và thực hiện rất khẩn trương trong tình hình kinh tế đang biến động mạnh, song lại thiếu biện pháp đồng bộ và các giải pháp cụ thể, tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế nên khi triển khai nghị quyết vào cuộc sống đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Tình hình phân phối càng thêm rối ren căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát tăng nhảy vọt.
Tháng 12.1985, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1985 và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1986 nhằm tạo nên một chuyển biến mạnh trong việc thực hiện cơ chế mới, quản lý kinh tế - xã hội, sử dụng lao động, đất đai và những cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có, đổi mới kế hoạch hoá...
Cuối tháng 5.1986, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phân tích những khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá lương tiền, khẳng định quyết tâm chiến lược xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, Hội nghị còn thảo luận và góp ý bản Báo cáo chính trị để trình bày tại Đại hội lần thứ VI của Đảng.
Ngày 14.7.1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng thay Đồng chí Lê Duẩn đã từ trần ngày 10.7.1986.
Ngày 17.11.1986, Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương kiểm điểm, hoàn thiện công việc chuẩn bị Đại hội VI và quyết định triệu tập Đại hội VI sẽ họp công khai vào tháng 12.1986.
Đầu tháng 12.1986, Hội nghị lần thứ mười hai của Ban Chấp hành Trung ương họp tiếp tục thảo luận vấn đề nhân sự và thông qua danh sách giới thiệu Ban Chấp hành Trung ương mới để trình Đại hội VI.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V (1982-1986) Tổng bí thư Lê Duẩn (đến tháng 7.1986) Trường Chinh (từ tháng 7.1986) Bộ Chính trị Ủy viên chính thức 1. Lê Duẩn 2. Trường Chinh 3. Phạm Văn Đồng 4. Phạm Hùng 5. Lê Đức Thọ 6.Văn Tiến Dũng 7. Võ Chí Công 8. Chu Huy Mân 9. Tố Hữu 10. Võ Văn Kiệt 11. Đỗ Mười 12. Lê Đức Anh 13. Nguyễn Đức Tâm 14. Nguyễn Văn Linh (bổ sung từ tháng 6.1985) Ủy viên dự khuyết 1. Nguyễn Cơ Thạch 2. Đồng Sỹ Nguyên Ban Bí thư 1. Lê Duẩn 2. Lê Đức Thọ 3. Võ Chí Công 4. Nguyễn Đức Tâm 5. Nguyễn Lam 6. Lê Quang Đạo 7. Hoàng Tùng 8. Nguyễn Thanh Bình 9. Trần Kiên 10. Trần Xuân Bách 11. Nguyễn Văn Linh (bổ sung từ tháng 6.1986) Danh sách Ban Chấp hành Trung ương Ủy viên chính thức 1. Lê Duẩn 2. Trường Chinh 3. Phạm Văn Đồng 4. Phạm Hùng 5. Lê Đức Thọ 6. Võ Nguyên Giáp 7. Nguyễn Duy Trinh 9. Trần Quốc Hoàn 10. Văn Tiến Dũng 11. Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) 12. Lê Văn Lương 13. Chu Huy Mân 14. Võ Chí Công 15. Tố Hữu 16. Võ Văn Kiệt 17. Đỗ Mười 18. Nguyễn Thanh Bình 19. Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) 20. Đỗ Chính 21. Cao Đăng Chiến (Sáu Hoàng) 22. Nguyễn Côn 23. Lê Quang Đạo 24. Nguyễn Thị Định 25. Trần Độ 26. Trần Đông 27. Ngô Duy Đông 28. La Lâm Gia (Bảy Máy) 29. Song Hào 30. Vũ Thị Hồng 31. Lê Khắc 32. Bùi Thanh Khiết 33. Nguyễn Lam 34. Trần Lâm 35. Trần Lê (Năm Hòa) 36. Trần Văn Long (Mười Dài) 37. Đồng Sỹ Nguyễn 38. Nguyễn Thị Như 39. Đỗ Văn Nguyện (Tự Nguyện) 40. Vũ Oanh 41. Trần Phương 42. Trần Quyết 43. Trần Quỳnh 44. Trần Văn Sớm 45. Nguyễn Đức Tâm 46. Nguyễn Cơ Thạch 47. Đặng Thí 48. Nguyễn Hữu Thụ 49. Nguyễn Đức Thuận 50. Đào Duy Tùng 51. Hoàng Tùng 52. Nguyễn Đình Tứ 53. Nguyễn Ngọc Trìu 54. Nguyễn Vịnh 55. Trần Xuân Bách 56. Nguyễn Đức Bình 57. Lê Đức Bình 58. Nguyễn Thị Bình 59. Vũ Đại 60. Trần Hữu Đắc 61. Nguyễn Hòa (Dầu khí) 62. Đình Nho Liêm 63. Vũ Mão 64. Bình Phương 65. Vũ Quang 66. Lê Đức Thịnh 67. Nguyễn Văn Chính (Chín cần) 68. Nguyễn Như Ý (Lê Quang Chữ, Năm Chữ) 69. Y Ngông Niêk Đăm 70. Nguyễn Đáng (Năm Trung) 71. Lê Văn Hiền (Tám Hiền) 72. Trần Quốc Hương (Mười Hương) 73. Nguyễn Xuân Hữu (Bảy Hữu) 74. Trần Kiên (Nguyễn Tuấn Tài) 75. Vũ Đình Liệu (Tư Bình) 76. Vũ Ngọc Linh 77. Trường Minh 78. Y Một 79. Hồ Nghinh 80. Lê Văn Phẩm (Chín Hải) 81. Bùi San 82. Nguyễn Văn Sĩ 83. Bùi Quang Tạo 84. Lê Việt Thắng (Việt Thắng) 85. Lê Phước Thị (Sáu Hậu) 86. Mai Chí Thọ (Năm Xuân) 87. Trần Vỹ 88. Phạm Bái 89. Nguyễn Kỳ Cẩm 90. Nguyễn Văn Đức 91. Nguyễn Văn Hơn (Sáu Sên) 92. Phạm Văn Hy (Tư Hy) 93. Hoàng Nó 94. Hoàng Quy 95. Phan Minh Tánh 96. La Thăng 97. Võ Trung Thành (Năm Vinh) 98. Vũ Thắng 99. Hoàng Minh Thắng 100. Lâm Văn Thê (Ba Hương) 101. Vương Dương Tường 102. Lê Đức Anh 103. Hoàng Cầm 104. Lê Ngọc Hiền 105. Đặng Vũ Hiệp 106. Đoàn Khuê 107. Vũ Lập 108. Bùi Phương 109. Nguyễn Quyết 110. Lê Trọng Tấn 111. Hoàng Văn Thái 112. Đàm Quang Trung 113. Nguyễn Thế Bôn 114. Nguyễn Minh Châu 115. Nguyễn Nam Khánh 116. Trần Văn Phác Ủy viên dự khuyết 1. Nguyễn Chân 2. Nguyễn Cảnh Dinh 3. Lê Văn Dỹ 4. Phan Xuân Đợt 5. Hồng Hà 6. Nguyễn Văn Hiệu 7. Phạm Hưng 8. Đặng Hữu 9. Nguyễn Khánh 10. Đinh Văn Lạp 11. Trân Đức Lương 12. Chu Tam Thức 13. Phan Ngọc Tường 14. Lê Văn Triết 15. Nguyễn Tấn Trịnh (chính thức từ năm 1983) 16. Hà Xuân Trường 17. Nguyễn Chí Vu 18. Phạm Thế Duyệt 19. Trần Thị Đường 20. Vũ Ngọc Hải 21. Vũ Tuyên Hoàng 22. Phan Thanh Liêm (chính thức từ năm 1984) 23. Nguyễn Thị Yến 24. Nguyễn Văn An 25. Lê Đại 26. Trần Anh Điền 27. Hà Trọng Hòa 28. Hà Thiết Hùng 29. Phan Văn Khải (chính thức năm 1984) 30. Trần Tấn 31. Đoàn Duy Thành (chính thức năm 1983) 32. Đoàn Thanh Vị 33. Nguyễn Thị Ngọc Liên (chính thức từ năm 1984) 34. Tráng A Pao 35. Nguyễn Hòa (Quân đội) 36. Hồ Quang Hóa |
Theo website Đảng Cộng sản VN
Bình luận (0)