Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất

05/01/2011 08:32 GMT+7

Vào đầu những năm 30, thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp hòng dập tắt phong trào cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản bị giết, bị tù đày, giam giữ trong các nhà tù: Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum...

Giữ vững ý chí chiến đấu, các chiến sĩ cộng sản lợi dụng những ngày tháng ở tù để học tập lý luận, biến nhà tù thành trường học cách mạng. Các đảng viên còn sống sót, kiên trì dựa vào sự che chở, đùm bọc của quần chúng cách mạng, bí mật hoạt động khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng, củng cố và phát triển phong trào quần chúng.

Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Thái Lan... đã tích cực giúp đỡ những người cộng sản ở Đông Dương. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên còn lại ở trong nước và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6.1932, bản Chương trình hành động của Đảng và các chương trình hành động của các tổ chức quần chúng được công bố.

Thời gian: từ 27 đến 31.3.1935

Địa điểm: Nhà số 2 Quan Công Lộ, Ma Cao, Trung Quốc

Số lượng đảng viên trong cả nước: 600

Số lượng tham dự Đại hội: 13 đại biểu

Tổng bí thư do Đại hội bầu: đồng chí Lê Hồng Phong

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội gồm 13 đồng chí

Nhiệm vụ chính: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến nước ngoài.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

Tháng 7.1936 đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải (Trung Quốc).

Ngày 29 và 30.3.1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định lập Mặt trận thống nhất dân chủ. Bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập (Tổng bí thư giai đoạn 1936-1938).

Tháng 5.1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Pắc Bó (Cao Bằng) đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh và Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chọn cờ đỏ sao vàng năm cánh làm Quốc kỳ.

Ngày 2.9.1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc Tuyên ngôn độc lập.

19.12.1946 cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I đã họp 6 lần và một số Hội nghị cán bộ toàn quốc để quyết định những vấn đề quan trọng của Đảng và Cách mạng nước ta; trong đó có vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất, phát động tổng khởi nghĩa, tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.

Trong điều kiện lịch sử mới, Chương trình hành động của Đảng nêu ra các yêu cầu trước mắt:

1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.

4. Bỏ độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.

Vượt qua muôn vàn khó khăn, các đảng viên đã bám sát dân, duy trì cơ sở đảng ở Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Cao Bằng, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở Nam Bộ. Nhiều tỉnh ủy, thành ủy lần lượt được khôi phục. Các xứ ủy Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ cũng được lập lại. Xứ ủy Lào được thành lập vào tháng 3.1934.

Tháng 6.1934, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, do Lê Hồng Phong đứng đầu, làm chức năng của một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Ban này có nhiệm vụ tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại ở trong nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị triệu tập Đại hội của Đảng.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31.3.1935. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở ngoài nước, trong đó có hai đại biểu của Đảng bộ Bắc Kỳ, hai đại biểu của Đảng bộ Trung kỳ, ba đại biểu của Đảng bộ Nam Đông Dương, một đại biểu Đảng bộ Lào, ba đại biểu cho các đảng viên hoạt động ở Thái Lan, hai đại biểu của Ban lãnh đạo hải ngoại. Trong thời gian này, sau khi thoát khỏi nhà tù của đế quốc Anh ở Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc đã sang Liên Xô và vào học Trường Quốc tế Lênin, trường dành cho cán bộ lãnh đạo các đảng công nhân trên thế giới. Lê Hồng Phong, Trưởng ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng cùng với Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn đi Mátxcơva dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.

Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục. Đó là một thắng lợi to lớn của Đảng. Các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo trong khoảng vài năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau, khiến cho quần chúng công nông thêm hăng hái đấu tranh. Song, hệ thống tổ chức của Đảng chưa thật thống nhất, sự liên lạc giữa các cấp bộ chưa thật thông suốt, tổ chức cơ sở của Đảng chưa được phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp... Đại hội đã nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng.

1. Củng cố và phát triển đảng, tăng cường phát triển lực lượng đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một thành luỹ của Đảng; đồng thời, phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống "tả" khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.

2. Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. "Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... Muốn đưa cao trào cách mạng mới lên trình độ cao tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến, lập nên chính quyền Xô viết thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm căn bản cần kíp của Đảng hiện thời".

3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc...

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người... và Điều lệ của Đảng, điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gồm 13 ủy viên, trong đó có Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Nguyễn Văn Dựt, Hoàng Văn Nọn, Ngô Tuân, Phạm Văn Xô, Nguyễn Ái Quốc...

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cử Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến trung ương. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới với một đội ngũ đã được tôi luyện.

Từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ II của Đảng (3.1935 - 2.1951) biết bao chuyển biến to lớn diễn ra trên thế giới cũng như ở Đông Dương. Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng chịu trách nhiệm trước toàn Đảng vạch ra chủ trương, chính sách, lãnh đạo và tổ chức phong trào quần chúng đưa cách mạng Đông Dương tiến lên những bước phát triển mới.

Tháng 7.1936, sau khi dự Đại hội lần thứ VIII của Quốc tế Cộng sản về, Lê Hồng Phong đã chủ trì Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để xác định chủ trương mới của Đảng về các vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng và nhân dân Đông Dương là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hoà bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng lập mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi những quyền lợi hàng ngày, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, và để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển.

Hội nghị cũng quyết định chuyển hướng hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng liên hệ với quần chúng, giáo dục và tổ chức quần chúng đấu tranh bằng các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp. Chủ trương chuyển hướng của Trung ương Đảng đáp ứng yêu cầu cơ bản của quần chúng nên đã dấy lên một cao trào đấu tranh dân chủ rộng rãi trên toàn Đông Dương.

Ngày 30.10.1936, Đảng Cộng sản Đông Dương công bố văn kiện Chung quanh vấn đề chính sách mới của Đảng. Văn kiện nêu rõ: "Chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mệnh xã hội chủ nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của cuộc cách mệnh trong giai đoạn này".

Nhiệm vụ trước mắt là lập "Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi... bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ: tự do hội hiệp, tổ chức, tự do ngôn luận, xuất bản, tự do đi lại, xuất dương, ân xá hết chính trị phạm, ngày làm 8 giờ, các luật lao động cho thợ thuyền; mở rộng các cơ quan kinh tế, tài chính, hội đồng quản hạt, các viện dân biểu..., thành cơ quan tuyển cử theo lối dân chủ, thành chế độ dân chủ hội nghị..." nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc.

Văn kiện nêu rõ: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng. Vì rằng tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu việc tranh đấu chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước đánh đổ đế quốc rồi sau giải quyết vấn đề điền địa, nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động...

Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng".

"Đảng nhắc lại cho các đảng viên biết rằng một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương, vấn đề dân tộc giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản....

Đảng có thể bồi dưỡng một tinh thần dân tộc giải phóng mạnh mẽ trong dân chúng bị áp bức theo nguyên tắc dân tộc bình đẳng theo tinh thần quốc tế liên ái với các dân tộc bị áp bức, với vô sản thế giới và với nhân dân những xứ cách mệnh đã thành công".

Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng của giai cấp vô sản Đông Dương. Đông Dương là một thuộc địa, công nghệ kém cỏi, thợ thuyền ít, nông dân và tiểu tư sản chiếm phần đông, nhiệm vụ của Đảng không những phải thu phục đa số thợ thuyền, mà còn cần phải thu phục quảng đại quần chúng nông dân và tiểu tư sản thành thị. Những người cộng sản Đông Dương chính là con cháu của các dân tộc ở Đông Dương, thành tâm đấu tranh vì quyền lợi của quảng đại quần chúng, của Tổ quốc đồng bào sống trên bán đảo Đông Dương. Trong điều kiện đó Đảng Cộng sản Đông Dương phải là "đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiên phong cho cuộc dân tộc giải phóng".

Thực tiễn phong trào cách mạng của dân chúng đã diễn ra phong phú và đa dạng đòi hỏi Trung ương Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong trào.

Ngày 13 và 14.3.1937, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định những chủ trương tổ chức Mặt trận thống nhất, tổ chức các hội quần chúng, tổ chức đảng, v.v..

Tiếp đến từ ngày 3 đến ngày 5.9.1937, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định Đảng đã khôi phục lại hệ thống từ Bắc, Trung, Nam, một tổ chức thống nhất về chính trị và tổ chức. ảnh hưởng của Đảng phát triển nhanh chóng và chính sách của Đảng thích hợp với các điều nhu yếu của các tầng lớp nhân dân.

Hội nghị nhắc lại cho toàn thể đảng viên rằng: trong giai đoạn hiện tại, ta chưa ở vào tình thế trực tiếp cách mạng mà ở vào thời kỳ tranh đấu đòi các điều cải cách và đòi những điều tự do dân chủ cho toàn thể nhân dân, nên Đảng lãnh đạo quần chúng tranh đấu phải tránh những hành động kịch liệt, bạo động, có thể khiêu khích quân thù khủng bố vô ích; phải tùy theo tinh thần, lực lượng quần chúng và thái độ của kẻ thù để quyết định mức độ đấu tranh; phải biết giữ gìn và phát triển lực lượng quần chúng; phải biết kết thúc cuộc đấu tranh đúng lúc để giữ lấy ảnh hưởng của phong trào.

Ngày 29 và 30.3.1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ, coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Về tổ chức, Đảng phải củng cố những cơ sở đã có, lập thêm cơ sở mới, chú trọng phát triển cơ sở Đảng ở các châu thành, các đồn điền, các vùng kỹ nghệ tập trung. Các cơ sở tổ chức dù hoạt động công khai hay bí mật đều phải phục tùng cơ quan chỉ huy của Đảng ở các cấp. Tại Hội nghị này, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng bí thư của Đảng thay Hà Huy Tập.

Theo báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, đảng bộ Nam kỳ có 655 đảng viên, đảng bộ Trung kỳ 740 đảng viên và đảng bộ Bắc kỳ có 202 đảng viên. Về tổ chức ở ba kỳ đều có xứ uỷ. ở Nam kỳ có bốn liên tỉnh ủy, 11 tỉnh ủy và 122 chi bộ. ở Trung kỳ có tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. ở Bắc kỳ đã có đảng bộ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, Cao Bằng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm có 11 uỷ viên, trong đó có chín ủy viên hoạt động ở trong nước còn hai uỷ viên hoạt động ở ngoài nước.

Cuộc vận động dân chủ của Đảng trong những năm 1936-1939 diễn ra sôi nổi, rộng lớn đã minh chứng chủ trương chuyển hướng mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng, hợp với ý nguyện của dân chúng và phù hợp với tình hình đất nước.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đã thi hành chính sách kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với bọn thực dân Pháp càng trở nên gay gắt. Vấn đề mất còn của các dân tộc ở Đông Dương đặt ra một cách cấp thiết.

Ngày 6, 7, 8.11.1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định dưới sự chủ trì của Nguyễn Văn Cừ. Dự Hội nghị có Lê Duẩn, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... Hội nghị quyết định điều chỉnh sự chỉ đạo chiến lược cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Lúc này "bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập". Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết. Khẩu hiệu cách mạng ruộng đất phải tạm gác lại và thay vào khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc đem chia cho dân cày nghèo. Để thực hiện nhiệm vụ chính trị ấy phải lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị chủ trương Đảng phải kiên quyết tập trung mũi nhọn các cuộc đấu tranh của quần chúng vào việc chống đế quốc và tay sai, chuẩn bị tiến tới làm cuộc bạo động cách mạng để giải phóng dân tộc.

Hoạt động trong điều kiện chế độ thống trị của Pháp - Nhật ở Đông Dương đã phát xít hóa cho nên tổ chức của Đảng, đặc biệt là cơ quan đầu não của Đảng luôn luôn bị địch đánh phá ác liệt. Trong vòng một năm, kể từ khi chiến tranh bùng nổ, gần như hầu hết uỷ viên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bị địch bắt. Tháng 11.1940, Ban Chấp hành Trung ương phải kiện toàn lại, và đã họp Hội nghị bàn về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị tiếp tục khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị cuộc "võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập".

Tình hình chính trị quốc tế và Đông Dương diễn ra rất khẩn trương. Phát xít Đức sắp tấn công Liên Xô. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kỳ và binh biến ở Đô Lương bùng nổ là "những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương".

Ngày 28.1.1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5.1941, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. Dự Hội nghị có Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, cùng một số đại biểu của các xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ... do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

Mâu thuẫn chủ yếu đang diễn ra sâu sắc trên bán đảo Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Do đó, trong lúc này "khẩu hiệu của Đảng ta trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... Nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Hội nghị tiếp tục giương cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công cho công bằng, giảm tô và giảm tức.

Nhằm khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần dân tộc, ý chí độc lập tự cường của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hội nghị chủ trương vấn đề dân tộc phải được giải quyết trong từng nước. Vì thế, phải thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Đó là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh, Cao Miên độc lập đồng minh. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp - Nhật thì các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tự mình quyết định lấy vận mệnh của mình. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận. Riêng đối với dân tộc Việt Nam sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kỳ.

Công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được coi là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn đó. Trong quá trình chuẩn bị để tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận khi có thời cơ để mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng chính thức, trong đó Ban Thường vụ gồm có Trường Chinh là Tổng bí thư, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt là Ủy viên thường vụ.

Nhân dịp Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng".

Giữa lúc nhân dân ta đang tích cực phát triển lực lượng, gấp rút "sắm vũ khí đuổi thù chung" thì đêm 9.3.1945, phát xít Nhật gây ra cuộc đảo chính lật đổ Pháp ở Đông Dương. Cũng ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ban Thường vụ xác định kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân các dân tộc ở Đông Dương là phát xít Nhật, nêu khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật", "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân" để chống lại chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật và phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra sôi nổi, phong phú về nội dung và hình thức. Giữa tháng 8.1945, tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện. Cơ hội ngàn năm cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã đến. Ngày 13.8.1945, Hội nghị cán bộ toàn Đảng đã họp ở Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang, gồm có đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu của Đảng hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong khởi nghĩa là phải chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, phải phối hợp quân sự với chính trị, phải làm tan rã tinh thần quân địch, dụ chúng ra hàng trước khi đánh.

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại cần thi hành ngay sau khi giành được chính quyền. Thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng, thực hiện chính sách thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng và hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số ủy viên: Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Vũ Anh và Võ Nguyên Giáp.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đã thành công. Ngày 2.9.1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Độc lập tự do - tư tưởng cách mạng chủ yếu của Hồ Chí Minh - được phác thảo trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã biến thành hiện thực cách mạng bằng sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã đụng đầu ngay với những lực lượng đế quốc quốc tế và bọn phản động trong nước. Chúng đang câu kết với nhau để hòng tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc. Ngày 25.11.1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn". Khẩu hiệu vẫn là "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết", "Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Trước mắt, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc và nhiều chỉ thị quan trọng khác của Trung ương Đảng chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân đấu tranh củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Nhờ có chủ trương đúng đắn và nhiều quyết sách kịp thời và sáng tạo, dũng cảm và sáng suốt, Đảng đã cứu vãn được tình thế, giữ vững chính quyền, tranh thủ từng phút hoà bình để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.

Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã bội ước, khiêu khích và tấn công ta về quân sự, lần lượt đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đến ngày 18.12.1946, chúng đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước khí giới của lực lượng tự vệ, đòi để cho chúng kiểm soát Thủ đô Hà Nội.

Ngày 18 và 19.12.1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp khẩn cấp dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh tại Vạn Phúc, Hà Đông, đã hạ quyết tâm chiến lược tiến hành kháng chiến trên quy mô cả nước và vạch ra những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến.

Đêm 19.12.1946, cả nước đã nhất tề đứng lên chiến đấu với tinh thần quyết tử và một niềm tin tất thắng theo lời kêu gọi kháng chiến của Hồ Chí Minh: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước...

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!".

Ngày 22.12.1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến phác hoạ một số điểm vắn tắt về đường lối, chủ trương, chính sách kháng chiến của Đảng, chỉ thị nêu rõ mục đích của cuộc kháng chiến là "Đánh bọn phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập", tính chất của kháng chiến là trường kỳ, toàn diện; kháng chiến ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công; chính sách kháng chiến: Cách đánh, chương trình kháng chiến, cơ quan lãnh đạo kháng chiến; khẩu hiệu tuyên truyền trong kháng chiến... nhằm hướng dẫn các cấp bộ đảng thực hiện.

Điều cơ bản có tính quyết định lúc bấy giờ là Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh biết hạ quyết tâm chiến lược phát động kháng chiến đúng lúc và xác định đúng những quan điểm cơ bản trong đường lối kháng chiến là chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và nhất định thắng lợi. Thông qua thực tiễn lãnh đạo và tổ chức toàn dân, toàn quân bằng mọi vũ khí chiến đấu chống giặc, Đảng từng bước bổ sung đường lối, xây dựng và phát triển đường lối chiến tranh, khoa học và nghệ thuật quân sự để chiến thắng kẻ thù. Từ năm 1947 trở đi, Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị cán bộ trung ương cũng như hội nghị cán bộ quân sự để triển khai chỉ đạo kháng chiến. Từ ngày 15 đến 17 tháng 1.1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp mở rộng ở Việt Bắc. Hội nghị nhận định: Chiến dịch Việt Bắc đã mang lại cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc ta một chuyển biến lớn. Nó đang đẩy ta chuyển sang giai đoạn cầm cự, giai đoạn thứ hai. Vì vậy, Trung ương quyết định đề ra nhiều biện pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xây dựng đảng nhằm thúc đẩy kháng chiến tiến lên giai đoạn mới.

Tháng 1.1949, Hội nghị cán bộ Trung ương họp ở Việt Bắc. Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã đọc báo cáo Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công, Hội nghị cũng đã nghe các báo cáo về nhiệm vụ quân sự, về củng cố chính quyền nhân dân, về công tác mặt trận và dân vận, về những nhiệm vụ kinh tế, về tình hình Đảng và kế hoạch công tác nội bộ, chuẩn bị Đại hội Đảng ... Hội nghị quyết định các nhiệm vụ và biện pháp thực hiện kế hoạch chiến lược "Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công". Tháng 1.1950, trước những biến chuyển của tình hình quốc tế, nhất là thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng (21.1 - 3.2.1950) Trường Chinh đọc báo cáo Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Võ Nguyên Giáp đọc báo cáo về Nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công. Trên cơ sở đánh giá tình hình, Hội nghị quyết định "cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sức giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, trước mưu mô của đế quốc Mỹ, Anh, mà gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công trong năm 1950 này". "Ta phải tích cực phát huy khả năng của ta, triệt để lợi dụng nhược điểm của địch, làm cho thế lực của ta lớn mạnh hơn, để trong năm 1950 ta có thể chuyển sang tổng phản công được". Muốn chuyển sang tổng phản công, ta cần chiếm ưu thế về quân sự trên chiến trường chính, trong khi ở các chiến trường khác, ta đủ sức kiềm chế địch. ưu thế quân sự đó phải được giữ vững và phát triển để tiếp tục phản công cho đến toàn thắng... Mục đích của tổng phản công là: tiêu diệt sinh lực của địch; thu hồi toàn bộ lãnh thổ của Tổ quốc và đè bẹp ý chí xâm lược của địch.

Để thực hiện nhiệm vụ chiến lược chuyển sang tổng phản công, Hội nghị quyết định phải thực hiện nhiệm vụ quân sự, trước mắt là chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân; củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và công tác dân vận; củng cố chính quyền nhân dân; tổng động viên toàn lực, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để chiến thắng!" và "Thi đua ái quốc"; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Hội nghị toàn quốc, nhiều ngành, nhiều địa phương đã phạm những khuyết điểm, sai lầm trong công tác xây dựng lực lượng quân sự, trong thực hiện phương châm tác chiến, trong công tác tổng động viên... Sai lầm có tính chất phổ biến trong nhiều ngành, nhiều cấp là do sự chi phối của khuynh hướng chủ quan duy ý chí, "tả" khuynh, nóng vội của Hội nghị toàn quốc của Đảng trong việc hạ quyết tâm chiến lược chuyển sang giai đoạn tổng phản công năm 1950. Vào giữa năm 1950, Trung ương đã phát hiện những khuynh hướng sai lầm chủ quan nóng vội trên, cho nên đã kịp thời có chủ trương uốn nắn, sửa chữa. ý thức kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính tiếp tục được quán triệt hơn. Mọi mặt trận kháng chiến tiếp tục phát triển vững chắc và tiến lên giành những thắng lợi to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng họp Đại hội lần thứ II vào đầu năm 1951.

Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa I (1935-1951)

Tổng bí thư

1. Lê Hồng Phong (3.1935 - giữa năm 1936)

2. Hà Huy Tập (giữa năm 1936 - 3.1938)

3. Nguyễn Văn Cừ (3.1938 - 1.1940)

4. Trường Chinh (10.1940 - 5.1941, quyền Tổng bí thư và từ 5.1941, Tổng bí thư)

Ban Thường vụ

Có 5 đồng chí trong đó có Lê Hồng Phong và Đinh Thanh

Danh sách Ban Chấp hành Trung ương

Ủy viên chính thức

1. Lê Hồng Phong

2. Hà Huy Tập

3. Nguyễn Văn Cừ

4. Trường Chinh

5. Đinh Thanh

6. Hoàng Văn Thụ

7. Hoàng Văn Nọn

8. Nguyễn Văn Dựt

9. Nguyễn Chí Diểu

10. Võ Nguyên Hiến

11. Thầu Xỉ (người Lào)

12. Ngô Tuân

13. Nguyễn Ái Quốc

14. Lê Duẩn

15. Phan Đăng Lưu

16. Võ Văn Tần

17. Nguyễn Thị Minh Khai

18. Phùng Chí Kiên

19. Hoàng Quốc Việt

20. Nguyễn Chí Thanh

21. Hoàng Văn Hoan

22. Chu Văn Tấn

23. Vũ Anh

24. Võ Nguyên Giáp

Ủy viên dự khuyết

1. Phạm Văn Đồng

2. Lê Đức Thọ (chính thức từ tháng 8-1945)

3. Nguyễn Lương Bằng (chính thức từ tháng 8-1945)

4. Lê Văn Lương

5. Trần Đăng Ninh

Theo website Đảng Cộng sản VN

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.