Đọc "Khi đồng minh tháo chạy" - Kỳ 4: Sau lưng Nữ thần Tự do

20/08/2005 21:03 GMT+7

Cách đây 15 năm, cuốn Từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập của GS-TS Nguyễn Tiến Hưng viết chung với Jerold Schecter bằng tiếng Anh (nguyên bản: The Palace File, nhiều người dịch), được in bởi NXB Trẻ (TP Hồ Chí Minh 1990), công bố những bí mật bẽ bàng sau hậu trường bang giao giữa chính quyền Sài Gòn với Hoa Kỳ vào những năm cuối của cuộc chiến Việt Nam.

Tiếp tục nội dung trên, GS-TS Nguyễn Tiến Hưng viết Khi đồng minh tháo chạy (KĐMTC) bằng tiếng Việt, vừa in tại Hoa Kỳ bởi cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh (San Jose, CA. 2005) dựa theo một số tài liệu mới và nghiên cứu bổ sung của tác giả trong hơn 10 năm qua, lúc ông đảm nhiệm vai trò cố vấn cho Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) về nhiều dự án chuyển đổi kinh tế và cứu đói giảm nghèo vào thập niên 1990. Theo ông:

Sau Hiệp định Paris 1973, Sài Gòn phải tiếp tục tự xoay xở nguồn viện trợ mới (ngoài Mỹ) và nhận được đề nghị giúp đỡ từ Quốc vương Shah nước Iran với khoản vay 100 triệu đô la để nhập cảng hàng hóa và "nếu Việt Nam Cộng hòa không có khả năng hoàn trả bằng tiền bạc thì có thể trả bằng sản phẩm, thí dụ như rau cỏ, hoa quả Đà Lạt. Phía Việt Nam cứ đi thu mua, rửa sạch, đóng vào giỏ tre, giỏ mây, sẽ có máy bay vận tải bay thẳng từ Tehran, Iran sang Đà Lạt hằâng tuần để chở về. Sân bay Liên Khương ở Đà Lạt sẽ được sửa chữa lại. Kế toán sổ sách theo giá quốc tế, không có vấn đề gì. Đây là một sáng kiến rất tốt, nhưng nó đòi thời gian để tổ chức, phát triển sản xuất, thu mua, nới rộng sân bay, không thể thi hành ngày một ngày hai được" (tr.185).

Thế là đi vay từ Pháp, sang Nhật, đến Iran, kể cả nguồn "viện trợ song phương" nhỏ giọt của một số nước khác rót vào (khoảng dăm ba triệu đô la), thì xem ra tất cả vẫn chưa đáp ứng nhu cầu lâu dài. Nên trước mắt, Sài Gòn đành quay lại trông chờ ở... Mỹ. Nhưng bấy giờ, quân Mỹ rút, chi tiêu đô la cũng rút theo, vì trong những năm chiến tranh "ngoài số tiền viện trợ, lại còn có nguồn thu đô la quan trọng thứ hai, đó là đô la thu được do nhu cầu đổi sang tiền đồng Việt Nam của nguồn ngoại tệ Mỹ vào gồm quân đội, tòa đại sứ, các công ty xây cất, dịch vụ Mỹ. Bây giờ thì quân đội Mỹ về hết rồi, các cơ quan hành chính Mỹ thu nhỏ lại, và các hãng ngoại quốc cũng ra đi. Số đô la mua được từ nguồn này đã giảm từ mức 300 - 400 triệu một năm xuống còn 96 triệu (1973) và 97 triệu (1974)” (tr.177)

Thêm vào đó: "Trong thời chiến, sự có mặt của đồng minh giữ mức thất nghiệp ở thành thị tương đối thấp. Một cách gián tiếp, chi tiêu của họ sinh ra công ăn việc làm, đặc biệt trong lãnh vực dịch vụ. Một cách trực tiếp, các căn cứ quân đội, cơ quan và hãng Mỹ cũng đã tuyển dụng một số nhân công không phải nhỏ. Riêng số người làm việc cho các cơ quan và hãng Mỹ là 160.000 năm 1969. Số này chỉ còn vỏn vẹn trên 17.000 vào cuối năm 1973" (tr.180). Đến 1974, về ngân sách viện trợ nhập cảng CIP cho miền Nam tài khóa 1975 - 1976 được Mỹ "duyệt" thấp xuống, chỉ còn 145 triệu đô la. Ngay số tiền này, theo tác giả, cũng chỉ là mệnh giá trên danh nghĩa (nominal), chứ mãi lực thật của nó giảm 50% do lạm phát, vật giá leo thang, chỉ còn 70 triệu). Và do hậu quả lệ thuộc nên "giá cả Mỹ leo thang, giá cả ở miền Nam cũng leo theo luôn. Trước hết là gạo. Với cùng một số tiền viện trợ thực phẩm (trước kia), số gạo Tổng cục Thực phẩm mua được (sau này) từ Louisiana bị giảm cùng mức". Sau gạo, là xăng dầu. Lúc bấy giờ giá dầu xăng đã tăng 47% (vào 11.1973), lại tăng lên 140% (đầu 1974) làm "giá xăng (ở miền Nam) cao vào hàng nhất thế giới hồi đó". Mặc dù chính quyền Sài Gòn vận động dân chúng thực hiện mục tiêu giảm 25% mức tiêu thụ xăng nhớt để dồn cho những nhu cầu thiết yếu như hoạt động nông nghiệp hoặc ngư nghiệp, nhưng do "giá dầu cặn diesel tăng từ 95 đồng lên 125 đồng, cao hơn tất cả các nước láng giềng" nên đã ảnh hưởng nặng nề đến những chiếc tàu đánh bắt tôm vừa tân trang, khiến tất cả phải ngưng hoạt động và "ngư dân với những thuyền mắc máy đuôi tôm lượn trên sông rạch nay đã thưa thớt. Khi giá các loại dầu xăng tăng, thì trực tiếp hay gián tiếp, phí tổn phải tăng, nâng giá hàng hóa cao hơn nữa. Bị ảnh hưởng nặng nhất là những người có đồng lương cố định" như quân nhân, công chức, giáo viên. Họ phải đem đồng lương mất giá đi mua hàng hóa tăng giá. Giá hàng tăng còn do ảnh hưởng trực tiếp từ nguồn viện trợ thực phẩm bị cắt giảm 3/4 (so với tài khóa 1971 - 1972), nghĩa là từ 165 triệu xuống 46 triệu. Một nền kinh tế quen sống bằng tiền tỉ ngoại viện, nay "đến mức này thì coi như cạn kiệt. Bầu không khí mỗi khi họp hành để bàn định về kinh tế sao nó u buồn thế". (tr.186)

Chợt lóe lên tia sáng vào cuối năm 1974 khi Vua Saud al  Faisal của xứ dầu lửa Ả Rập Saudi bằng lòng cho vay vài trăm triệu đô la, lãi suất nhẹ, dài hạn: "Khi nào miền Nam đào lên được dầu lửa thì mới phải trả. Điều kiện viện trợ nhẹ nhàng, thủ tục thi hành đơn giản. Ký xong là có tiền ngay (hay cho vay bằng dầu lửa cũng được). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá thiếu những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn" (tr.187). Chỉ riêng về xăng dầu, miền Nam phải nhập một lượng với số tiền 82 triệu đô la vào 1973, thì cùng một lượng đó phải chi 200 triệu đô la vào 1974. Lấy đâu ra? Sài Gòn trông cậy vào số tiền mà Vua Saud al Faisal hứa cho vay để đắp đổi tức thời vào các nguồn chi "cốt tử" trên. Nhưng "đúng là họa vô đơn chí. Những cái rủi ro nó bay theo nhau mà đến. Đang lúc sửa soạn đàm phán chi tiết với Chính phủ Saudi để sớm có giải ngân thì đùng một cái, Vua Faisal bị chính cháu mình sát hại. Chính phủ miền Nam chưng hửng". Ông vua tốt bụng này nằm xuống ngày 25.3.1975 vào đúng ngày quân đội Sài Gòn rút chạy hoàn toàn khỏi cố đô Huế. Quân giải phóng tràn qua đèo Hải Vân, vào Đà Nẵng, vũ bão chiếm Sa Huỳnh, rồi Nha Trang, uy hiếp phòng tuyến Phan Rang, tiến về Sài Gòn.

Lúc bấy giờ, tại Washington, Bộ Quốc phòng Mỹ lẳng lặng thảo kế hoạch có mật hiệu Talon vise nhằm đưa 6.000 người Mỹ (cùng một số rất ít người Việt Nam làm việc với họ) di tản khỏi Sài Gòn "bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất" với số quân yểm trợ dự trù khoảng từ 3 - 6 sư đoàn thủy quân lục chiến (TQLC), mỗi sư đoàn 18.000 người sẽ được bất thần tung vào Việt Nam. Đã có lệnh tập họp 4 hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Enterprise áp sát vùng biển Nam Việt Nam kèm theo nhiều tàu hộ tống khác để khi cần sẽ "yểm trợ hỏa lực từ  ngoài khơi". Trên không hàng trăm trực thăng cùng máy bay phản lực khống chế bầu trời khi kế hoạch Talon vise triển khai. Biết tin, Đại sứ Martin nói với Hưng: "Đó là những kế hoạch điên rồ (crazy plans) có thể gây ra thảm họa lớn". Vì nếu Mỹ chỉ di tản người Mỹ và bà con của họ thì “liệu các đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng VNCH có để yên hay không?” (tr.372). Đêm 17.4, sau nhiều tin tình báo bất lợi, Martin đánh mật điện rất dài gửi Kissinger nhấn mạnh: “Người Việt Nam sẽ cho rằng Hoa Kỳ mang TQLC vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận người Việt ở đây" (tr.377) và những ngày sau đó Martin đã đưa "một số khá nhiều phi công VNCH và gia đình được ưu tiên ra đi. Tất cả khoảng 2.000 người di tản trước hết là tới phi cảng Utapao ở Thái Lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ. Trình bày cho Quốc hội về việc này, ông Martin cho rằng nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ trên đầu những người Mỹ còn lại (...). Nếu phi công VNCH bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ, chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6.000 người Mỹ phải chết. Thêm vào đấy là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên. Dĩ nhiên là không lực từ Đệ thất hạm đội sẽ vào uy hiếp dẹp mọi cuộc tấn công. Nhưng Sài Gòn sẽ đổ nát như Baghdad và bao nhiêu người dân sẽ là nạn nhân ?" (tr.381).  Sau cùng Tổng thống Ford đã được thuyết phục, bãi bỏ Talon vise, không đưa TQLC Mỹ vào Sài Gòn nữa. Đến 4 giờ 58 phút ngày 30.4, Martin "bơ phờ ôm lá cờ Mỹ bước lên chiếc Lady Ace 09". Mật hiệu "Tiger, Tiger, Tiger" được phát từ máy bay, cho biết Martin sắp rời bờ biển Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, trưa 30.4 (nhằm 1.5 giờ Sài Gòn), Hãng thông tấn Associated Press phát thông cáo: "Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và cựu phụ tá đặc biệt của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sẽ tổ chức một buổi họp báo lúc 4 giờ chiều hôm nay tại khách sạn May Flower, phòng Pan American, để nói về bản chất những thỏa thuận bí mật giữa cựu Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu. Sẽ tiết lộ hai lá thư của ông Nixon gửi ông Thiệu" (tr.421). Đúng giờ, ký giả báo chí và truyền hình kéo đến chật phòng họp. Ông Hưng nói với họ đại ý là, củ cà rốt tức viện trợ mà Hoa Kỳ cam kết rất rõ ràng qua các lá thư Nixon gửi dinh Độc Lập là sẽ tiếp tục đầy đủ để vực dậy hoạt động kinh tế của chính quyền Sài Gòn rốt cuộc chỉ là bánh vẽ to tướng và kêu gọi Hoa Kỳ đón nhận, giúp đỡ người Việt Nam di tản. Một nhà báo Mỹ hỏi lý do gì nước Mỹ phải giúp đỡ như thế. Hưng đáp chính tượng Nữ thần Tự do nhắc nhở điều đó. Nghe thế, anh chàng nhà báo kia vội xen vào một câu xỏ xiên: “Tôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ thần Tự do quay mặt về phía Đại Tây Dương”. Hưng viết: "Ý nói là bà (nữ thần) quay lưng về phía Thái Bình Dương, phía Việt Nam chúng ta! Vô cùng đau đớn, tôi đã không cầm được nước mắt". 

Mai Nguyễn

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.