* Xin ông cho biết về việc chuẩn bị và tiến độ của việc biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam 30 tập mà giới nghiên cứu đang gọi là bộ Quốc sử?
|
Đề án bộ Quốc sử thì mới hoàn thành năm 2014, và năm 2015 mới triển khai, cố gắng hoàn thành vào 2018.
* Ông từng nói bộ sử sẽ có một số quan điểm khác hẳn trước. Xin ông nói rõ hơn?
- Khi triển khai 4 tập trước thì thấy cách trình bày lịch sử VN đã khác rất nhiều so với trước, đem ra thảo luận, tìm được nhất trí cao. Vì trước chúng ta viết sử là dựa theo các bộ sử của các cụ đời trước để viết, như là cụ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên… Các bộ sử thời trước, nói đúng ra được chép chính xác là sử của Đại Việt, ví dụ như Lê Văn Hưu là Đại Việt sử ký toàn thư. Sử Đại Việt là sử chính dòng của lịch sử VN, tính từ Hùng Vương dựng nước rồi Văn Lang Âu Lạc… rồi Đại Cồ Việt, Đại Việt.
Từ 1067, lúc đó Nam tiến mới chép thêm Quảng Bình, rồi nhà Trần mở đến đâu, rồi Lê Thánh Tông thì mở đến Bình Định, rồi sau đó mở thêm hai nước nữa là Nam Bàn và Hoa Anh, rồi chúa Nguyễn Phúc Nguyên mở ra đến Nam bộ… Quá trình mở cõi và định cõi để có như ngày hôm nay. Như thế có nhiều câu chuyện lịch sử, vấn đề lịch sử chúng ta bỏ qua. Chúng ta nhớ rằng trên phạm vi lãnh thổ VN không phải một vùng có lịch sử dựng nước mà cả 3 vùng đều có lịch sử dựng nước.
|
* Xin ông cho ví dụ về những vùng nào bị khuất và sẽ được lấp?
- Đại Việt Sử ký toàn thư chỉ tính phạm vi nhà nước Đại Việt là từ Quảng Bình đổ ra Bắc. Từ Quảng Bình đổ vào Bình Thuận thì vùng đó là một vùng không gian văn hóa Sa Huỳnh. Khi đó nhà nước của người Sa Huỳnh cổ, trước giờ bị bỏ qua. Rồi nhà nước của Lâm Ấp và sau này là Chăm Pa. Một vương quốc rất huy hoàng, một vương quốc biển hùng mạnh ở khu vực châu Á. Một nhà nước tổ chức và làm chủ trên Biển Đông như vậy nhưng các bộ sử trước đây không đụng đến, thậm chí bị coi là nhạy cảm. Có những người nghiên cứu nhưng là nghiên cứu về văn hóa Chăm Pa, nghiên cứu về khảo cổ học Chăm Pa chứ còn đặt trong logic lịch sử của lịch sử VN thì nhiều người không coi là một phần. Đó là khoảng trống quá lớn cần lấp.
Ở khu vực phía nam, cả đông và tây Nam bộ, cũng có lịch sử lâu đời. Đến giai đoạn văn hóa Đồng Nai phát triển cũng rực rỡ, rồi sau đó có văn hóa Óc Eo. Văn minh Óc Eo là một văn minh đô thị hàng đầu ở khu vực châu Á, là văn minh thành thị ở trình độ cao. Lúc đó tìm thấy cả những đồng tiền La Mã do giao thương. Đấy là vùng phát triển sầm uất trong khu vực châu Á, rồi sau đó thành một đế chế rộng lớn. Nhưng cũng từng bị coi không phải của VN. Nhiều người học sử VN cũng không biết đó là của VN.
Trước đây, chúng ta cũng đã nghiên cứu các vùng đó rồi, nhưng giờ thì thêm việc tích hợp nó vào cơ sở chung của lịch sử VN.
|
* Khi nhìn lại, chúng ta thấy nhiều khoảng trống lịch sử. Nhưng lấp thế nào thì người nghiên cứu đã nghiên cứu rồi, người không thì cũng không rồi. Thế thì lấy đâu ra nhân lực để lấp khoảng trống đó?
- Chúng ta cũng có nghiên cứu rồi. Gần đây còn tổ chức kỷ niệm 100 năm văn hóa Sa Huỳnh. Người Pháp cũng nêu cao cái đó. Các khai quật khảo cổ học đã làm rất nhiều việc. Ngay những ngày này, trong Quảng Ngãi cũng đang khai quật một tháp Chăm khá điển hình vào thế kỷ 12. Ngay cả Nam bộ, hồi 2004 cũng đã có hội thảo nhân 60 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Óc Eo và Phù Nam. Lúc đó số lượng công việc đã được làm cũng nhiều. Đó là cơ sở để triển khai phần viết trong bộ Quốc sử. Chứ không phải bây giờ làm thì mới đi lo người.
* Các kết quả nghiên cứu hiện nay có gì khác các cụ xưa đã chép sử không?
|
* Câu chuyện nhà Nguyễn, vua Gia Long đã nói đi nói lại nhiều rồi. Chuyện đưa nó vào sách giáo khoa cũng nói nhiều rồi mà chưa làm được. Thế thì trong bộ Quốc sử này, nó sẽ được viết thế nào, dung lượng có lớn hơn thời kỳ khác để nhìn rõ hơn không?
- Theo tôi vấn đề không phải là dung lượng nhiều hơn, số lượng lớn hơn mà vấn đề là chúng ta đánh giá nó như thế nào. Đưa nó vào nhiều hơn mà vẫn đánh giá không đúng, hay thiên lệch kiểu quá ca ngợi cũng chẳng để làm gì. Cho nên vấn đề là người viết có thật sự khách quan, thẳng thắn không. Hiện theo phân công, PGS-TS Vũ Văn Quân - một người chuyên nghiên cứu về nhà Nguyễn phụ trách phần viết này.
Một phó chủ nhiệm đề án soạn khảo khác, PGS-TS Trần Đức Cường nói là chúng ta chưa nói về cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm đầy đủ. Có một câu chuyện đã nhìn thấy, khi Bảo tàng Lịch sử quốc gia làm triển lãm về cải cách ruộng đất thì PGS-TS Nguyễn Văn Huy (người đã làm triển lãm về thời kỳ bao cấp tại Bảo tàng Dân tộc học - NV) cho rằng nói như thế là quá nhiều đến thành tựu mà nói ít đến cái chưa được, như thế không cân bằng. Chúng ta có lặp lại cách làm như vậy?
Tinh thần chung là tôn trọng sự thật lịch sử. Ban chủ nhiệm đề án đã tổ chức khá nhiều cuộc hội thảo về những vấn đề lớn. Còn những vấn đề nào nằm gọn trong tập nào thì tập đó sẽ tự tổ chức trao đổi, người chủ biên thậm chí có toàn quyền mời chuyên gia trong nước và quốc tế, mời chuyên gia hàng đầu của các nước lớn. Cái rất quan trọng nữa là triệt để khai thác các nguồn tư liệu.
* Thế chúng ta có dùng, tham khảo các tư liệu, trích dẫn các nhà nghiên cứu lịch sử ở nước ngoài không? Tỷ trọng tư liệu nước ngoài có nhiều không?
- Đối với sử, cái quyết định là tư liệu gốc. Tư liệu cũng phải được nghiên cứu, phân tích, giám định bài bản. Cũng có những đề tài buộc phải dùng tài liệu nước ngoài mới xác tín. Chẳng hạn nghiên cứu về ngoại thương thì buộc phải có tài liệu nước ngoài. Thậm chí là có những nguồn thông tin tư liệu chỉ có ở nước ngoài, và chúng tôi có cả chương trình để đi tìm tư liệu đó.
* Trong nhóm biên soạn có các chuyên gia các ngành khác không vì có những vấn đề văn học sử, kinh tế, nghệ thuật?
- Có chứ. Chúng tôi có những chuyên gia Hán Nôm đã làm sử, họ đã có liên ngành tốt giữa hai ngành. Chúng tôi mời nhiều chuyên gia Hán Nôm không chỉ làm tư liệu mà còn nghiên cứu nữa, còn cả những chuyên gia tiếng Anh, Pháp, Nhật nữa. Có người viết trực tiếp, có người thẩm định tư liệu. Chẳng hạn, PGS-TS Phạm Thùy Vinh, TS Trần Trọng Dương, PGS-TS Đinh Khắc Thuân của Viện Hán Nôm…
* Về ngôn ngữ, bộ Quốc sử sẽ ra sao, thưa ông?
- Việc soạn thảo bộ Lịch sử Việt Nam 30 tập xây dựng một phong cách viết sử hiện đại, vừa khách quan, tôn trọng người đọc, vừa văn minh lịch sự. Không dùng các danh xưng nặng tính biểu cảm hay những mỹ từ ca tụng quá mức. Ví dụ: không dùng “nước ta”, “dân tộc ta” chung chung mà sử dụng tên gọi chính thức trong từng thời kỳ lịch sử như Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam… và trong trường hợp gọi chung thì dùng nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cũng sẽ dùng quân đội/Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thay vì ngụy quân, ngụy quyền. Dùng quân đội/binh lính Hàn Quốc thay vì lính đánh thuê Park Chung-hee…
GS Phan Huy Lê, Chủ tịch danh dự Hội Sử học VN
Cuộc kháng chiến chống Pháp đặc biệt là thời kỳ Cần Vương là thời kỳ được nghiên cứu rất kỹ. Nhưng có cuộc tranh luận rất lớn về các phong trào đầu thế kỷ 20, đó là tranh luận về quan hệ giữa Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ta lại coi Phan Châu Trinh như một nhà cải lương về tư tưởng. Giờ đây cũng phải nhận thức lại hai cụ đều là hai nhà yêu nước đi theo hai hướng khác nhau. Một bên huy động sức mạnh toàn dân để khởi nghĩa vũ trang. Còn một bên là cụ Phan Châu Trinh thì thấy với dân trí khi đó cần phải khai dân trí, hậu dân sinh rồi mới tiến lên giành độc lập dân tộc. Cũng đi tới một mục tiêu, xuất phát từ một động cơ, cùng đi tới độc lập dân tộc nhưng hai con người có hai con đường khác nhau, gần như bổ sung cho nhau. Cũng cần phải nghiên cứu khách quan hơn.
.GS Vũ Minh Giang, Phó ban Chủ nhiệm Đề án soạn thảo bộ Lịch sử Việt Nam
Chúng ta sẽ có một bộ sử được tích hợp các nghiên cứu khoa học mới nhất về VN trên thế giới. Nghĩa là ta sẽ thấy trong bộ sử này không chỉ tên các nhà khoa học lịch sử VN mà chúng ta sẽ thấy cả các nhà nghiên cứu lịch sử VN hàng đầu thế giới từ Nga, Pháp, Hoa Kỳ.
Tôi muốn nói đến sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, Ban Tuyên giáo với lịch sử... Gần đây, thông qua các bộ chức năng, các nhà sử học được tạo điều kiện để có những công trình gặp gỡ, ví dụ như bộ Sự phát triển vùng đất Nam bộ, một đề án cấp nhà nước. Gần đây là bộ Lịch sử Việt Nam. Như thế là có sự quan tâm về kinh phí, vật chất là đáng trân trọng. Nhưng điều tôi đề nghị cũng không kém quan trọng là phải tạo môi trường tự do học thuật trong lịch sử.
PGS-TS Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Năm 1951, tại Hội nghị San Fransisco (Mỹ) thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á - Thái Bình Dương, thì có ý kiến trao Hoàng Sa, Trường Sa về cho CHND Trung Hoa. Lúc đó ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của quốc gia VN đứng ra tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời đã là lãnh thổ của VN. Đó là quan chức thời cận hiện đại tuyên bố sớm nhất về điều đó... Vậy chúng ta sẽ đặt ra vấn đề gì nếu ta nói đó hoàn toàn là ngụy. Chỉ có cái là chúng ta đánh giá về các nhà nước đó như thế nào.
|
Bình luận (0)