Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì vào đầu xuân năm 987, vua Lê Đại Hành làm Lễ Tịch điền, cày ruộng để khuyến khích dân chúng trồng trọt sản xuất và đó là Lễ Tịch điền đầu tiên của nước ta được sử sách ghi lại. Đến thời nhà Lý, lễ này được tổ chức long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của triều đình vào mùa xuân. Đến đời Trần, do nạn giặc Nguyên nên Lễ Tịch điền không mấy quan trọng như trước. Tuy nhiên, khi có điều kiện, vua vẫn đích thân làm lễ. Đến các thời nhà Hồ, thì hầu như phong tục này không còn được giữ.
Sau này, từ khi khôi phục lại các nhiệm kỳ Chủ tịch nước ta cũng đã về Đọi Sơn thực hiện nghi thức Lễ Tịch điền vào mùng 5 - 7 tháng Giêng: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (năm 2010), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (2012), Chủ tịch nước Trần Đại Quang (2017).
|
Mỗi năm, vua phải thân chinh đi cày ruộng một lần
Nói về Lễ Tịch điền vào thế kỷ 17, cuốn Mô tả Vương quốc Đàng Ngoài của tác giả Samuel Baron (do Omega và NXB KHXH ấn hành) cho biết: “Vua hiếm khi ra khỏi cung cấm để du ngoạn. Chỉ mỗi năm một lần (tất nhiên không kể những dịp Chúa đưa Vua ra khỏi cung do có việc liên quan). Vua chỉ xuất hiện trước công chúng trong ngày lễ long trọng vào một ngày đẹp trời trong dịp năm mới. Dịp Lễ Tịch điền từ sáng sớm Vua, Chúa, Thái tử và các vị đại quan đi đến địa điểm làm lễ nằm ở phía Nam thành phố, nơi dựng lên cho mỗi dịp lễ này. Vua dừng lại ở bên ngoài và chờ cho đến khi trời sáng. Trong lúc chờ đợi, vua tắm rửa sạch sẽ và mặc lễ phục mới tinh. Khi tiếng súng thần công nổ vang lên, Chúa, Thái tử và các đại quan tiến về phía vua để chúc tụng trong không khí long trọng. Sau đó vua tiến hành cầu nguyện thần linh với sự thành kính theo lối riêng của người xứ Đàng Ngoài. Khấn xong, vua bước ra ngồi lên kiệu sơn son thếp vàng đặt ở ngoài sân".
|
Sách đã dẫn miêu tả: “Một thoáng nghỉ ngơi, người ta dâng lên vua một chiếc cày đóng trâu vào để sẵn sàng cử hành – hệt như cách người dân vẫn cày hằng ngày. Vua nắm lấy tay cày cầu phúc lành cho vương quốc và bắt đầu dạy cho dân chúng bằng hành động tượng trưng này, rằng không được ai xấu hổ khi mình là người cày ruộng, rằng lao động chuyên cần, biết lo liệu tính toán, chịu thương chịu khó làm ăn thì sẽ được đền đáp xứng đáng”.
Tiếp đó, thêm một lễ gọi là Chén bát (có thể lễ cúng cơm mới, xôi mới – người dịch) được tổ chức, mọi người bày lên bàn được phủ sơn một số bát đựng thức ăn có màu sắc khác nhau, bịt kín bằng giấy sạch gắn hồ để đảm bảo bí mật. Vua nhặt lên một chiếc bát và mở ra ngay. Nếu bát đựng cơm màu vàng thì người dân vui mừng tột độ (theo niềm tin) là năm này sẽ mùa màng bội thu, nếu vua chọn được bát cơm trắng sẽ mùa vụ tốt tươi, còn gặp phải bát nước thì vụ mùa bình thường. Tệ nhất mà chọn phải bát rau thì coi như gặp điềm gở: đói kém và chết chóc.
Sau phần này, Lễ Tịch điền sẽ chấm dứt. Tiếng súng thần công lại vang lên trong lúc vua bước vào kiệu để cho 8 lính khiêng đi qua các con phố để về lại cung. Văn quan cứ thế mặc áo thụng đi chân đất theo sau. Còn đội cận vệ của Chúa túc trực theo canh gác gồm ngựa, voi, tiếng trống đánh, tiếng gõ thanh la, cồng vang dậy, cờ đủ màu bay phất phới.
|
Ngồi trên kiệu, vua tỏ tấm lòng hào hiệp bằng hành động rải những đồng tiền đồng trên đường ngài đi về cung, còn chúa thì cũng ăn mặc sang trọng cưỡi con voi to đủng đỉnh ngay phía sau.
“Đội lính gác với khoảng 3.000 hoặc 4.000 chiến mã, khoảng 100 hoặc 150 chiến tượng trang hoàng lộng lẫy, kèm theo đó không dưới 10.000 quân sĩ diện những đồng phục áo mũ rất đẹp làm từ loại vải tốt của châu Âu”, tác giả cuốn Mô tả Vương quốc Đàng Ngoài kể lại. Điều đó cho thấy sự hoành tráng và quan trọng của Lễ Tịch điền xưa - mà Vua luôn đóng vai trò trung tâm - ở nước ta vào thế kỷ 17.
Bình luận (0)