Cải cách giáo dục: Những vấn đề cũ và mới

09/12/2004 08:34 GMT+7

Xã hội nước ta, trong nhiều năm, đã đặt tới đặt lui việc cải cách giáo dục. Cũng đã có nhiều đợt cải cách mang tính quốc gia, chỉ tính từ 30 năm nay. Đương nhiên, với một lĩnh vực rất trọng yếu, định đoạt cả dân trí lẫn đạo đức của một dân tộc, cân nhắc, trao đổi, thậm chí tranh luận và tranh luận gay gắt là chuyện không khó hiểu.

Vài hôm nay, Quốc hội đã mấy lần đề cập việc giáo dục, từ đánh giá đến chỉnh đốn, kể cả chuẩn bị hoàn thiện đạo luật về giáo dục. Một nhà giáo ở Khánh Hòa, ông Tạ Quang Sum, gửi cho tôi một bài viết súc tích, tôi xem đó như một tham luận với Quốc hội. Tôi xin phép nhà giáo Tạ Quang Sum giới thiệu tham luận này - giữ luôn tựa của tác giả.

"Sau ngày 30/4/1975. Song song với việc thành lập chính quyền cách mạng ở vùng mới giải phóng, chúng ta đã tiếp quản bộ máy và tài sản giáo dục hầu như nguyên vẹn. Đã kịp thời ổn định tổ chức, đưa hàng triệu thầy và trò nhanh chóng trở lại trường học. Đó là một thành công lớn, ngoài sức tưởng tượng của các thế lực tiêu cực.

Giáo dục ở miền Nam đến lúc ấy, là sự tiếp nối của nền giáo dục toàn quốc được thiết lập từ thời Pháp thuộc, về sau đã liên tục có sự điều chỉnh để tiếp cận với giáo dục Âu - Mỹ, do và nhờ tác động bởi chính sách viện trợ.

Tất nhiên, mỗi nền giáo dục có chức năng công cụ của chế độ chính trị. Nhưng xét trên bình diện nhân sinh - xã hội, vẫn có thể biệt hóa: về cách tổ chức, về tác dụng giáo dục, về hiệu quả đào tạo... Để khơi - gạn được những yếu tố tích cực, mà lịch sử đã tạo nên hoàn cảnh cho nó tiếp cận và bức thiết cải tiến. Không nhất thiết phải thay thế hoặc loại bỏ hẳn. Theo thời gian, với sự bồi dưỡng - gọt giũa của chính quyền cách mạng, bộ máy và con người của khối thể ấy đã hoàn toàn thuộc về ta. Vì vậy ở một số mặt, có thể nhìn nhận và công nhận giá trị hiệu dụng của nó, để xem nó như là một bộ phận của giáo dục Việt Nam trong vùng tạm chiếm. Bởi nó như một dòng chảy đã được chỉnh trị - thay đổi mục đích sử dụng. Vì, chủ thể của mọi thành tựu là nhân dân.

Đi sâu vào nghiên cứu, có thể phát hiện được từ bộ phận giáo dục ở miền Nam trước năm 1975, nhiều mô hình hoạt động và cải tiến đáng kể, thể hiện quá trình của sự vươn tới hội nhập khu vực:

- Bỏ kỳ thi tiểu học từ năm 1958. Bỏ kỳ thi trung học đệ nhất cấp (TN THCS) từ năm 1965. Bỏ kỳ thi Tú tài phần thứ nhất (lớp 11) từ năm 1972. Thống nhất chương trình liên tục của bậc học phổ thông 12 năm. Thực hiện cải tổ chương trình và nội dung giảng dạy cả 12 lớp, chỉ sau hai lần chỉnh lý và cập nhật hóa vào các năm 1968 và 1970.

- Đưa chương trình Giáo dục cộng đồng vào bậc tiểu học từ 1970.

- Tổ chức phân ban từ lớp đệ tam (10), là lớp đầu cấp bậc trung học đệ nhị cấp (cấp 3). Cách chọn ban của học sinh là hoàn toàn tự nguyện.

- Tổ chức dạy đồng thời hai sinh ngữ Anh và Pháp.

- Bên cạnh trường trung học (hệ phổ thông), còn có loại hình trường trung học kỹ thuật.

- Ở các trường công lập không thu bất kỳ khoản lệ phí nào. Các trường bán công rất hữu hạn. Các trường tư thục chiếm phần lớn phạm vi hoạt động, cung ứng đủ yêu cầu học tập cho 70% người đi học.

- Để phục vụ đối tượng người lớn tuổi, người phải vừa làm vừa học, có các trường văn hóa ban đêm. Nhưng chương trình học và thể thức thi tốt nghiệp là thống nhất cho mọi người dự học và dự thi.

- Tổ chức thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan ở kỳ thi duy nhất để hoàn tất bậc học phổ thông là kỳ thi thi Tú tài, bắt đầu từ năm 1972.

- Về giáo dục đại học thì: Đã tiến hành Việt hóa chương trình từ năm 1963. Chỉ tổ chức thi tuyển vào các trường đào tạo công chức như: Hành chính quốc gia - Sư phạm - Y khoa - Kỹ thuật và các trường Quân sự. Cho ghi danh tự do vào tất cả các trường đại học khác. Nhưng hoàn toàn kiểm soát được đầu ra, bằng việc tổ chức năm thứ nhất là năm dự bị, học trình Cử nhân là 3 năm tiếp theo. Thay chế độ học niên chế bằng chế độ tín chỉ từ năm 1971.

Tại sao và điều gì đã khiến các nhà quản lý giáo dục cứ phải loay hoay cải cách trong nhiều năm ? Cho mãi đến hôm nay đang phải đặt ra để bàn cãi nhiều vấn đề gọi là nóng bỏng. Mà thực ra nó đã có mặt trên lãnh thổ nước ta từ gần 30 năm trước! Vả lại, có xa lạ và xa xôi gì! Khi dấu ấn hiện thực và điều kiện kiểm nghiệm vẫn dễ dàng tìm được ra trên vô số vật thể và tài liệu lưu trữ. Nhất là trên rất nhiều con người, qua rất nhiều thế hệ đã được đào tạo từ bộ phận giáo dục ấy, đang phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Nhà nước hiện nay. Thời gian và vận hội không cho phép tiếp tục thử nghiệm - thí điểm những loại hình giáo dục mà thế giới đương đại đã khẳng định. Phải tìm hướng thoát và thoát ngay bằng những giải pháp cụ thể - hợp lý - đại chúng - khả thi.

Sự nghiệp giáo dục không thể trải trên mặt bằng mà phải là bậc thang. Nhiệm vụ của giáo dục ở thời đại mới có mục tiêu mới - nội dung mới - phong thể mới. Nhưng quy cách - truyền thống là tính chất nền của mọi nền giáo dục.

Phát triển phải tôn trọng quy luật tự nhiên. Sáng tạo nhưng không thể cá biệt. Cẩn trọng khác với hoài nghi. Phải tìm sự thích nghi và chấp nhận tính mặc nhiên của mô thức phổ thông để giúp chúng ta hội nhập, dễ dàng đưa giáo dục quốc gia đi vào quỹ đạo ổn định.

T.Q.S".

12/2004
Trần Bạch Đằng

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.