Yêu cầu của mỗi câu đều vừa sức Đề Văn năm nay, có thể nhận xét khái quát như sau: Cả 2 phần (chung và riêng) đều đạt chuẩn về nội dung. Các câu hỏi đều nằm trong chương trình học lớp 12; có đề nghị luận văn học, có đề nghị luận xã hội. Số câu văn học Việt Nam chiếm tỷ lệ cao (2/4), nhưng người ra đề không quên kiểm tra kiến thức văn học nước ngoài. Tóm lại, “mâm, bát” đủ cả. Cần nói thêm: yêu cầu của mỗi câu đều vừa sức, tất cả 4 câu đều được diễn đạt rành mạch, rõ ràng, thí sinh không thể hiểu lầm, hiểu sai. Có điều, khi đọc đề Văn năm nay tôi cứ tiếc: cách ra đề nhìn chung chân phương, “thật thà” thiếu chất văn để có thể khơi gợi hứng thú thẩm mỹ nơi thí sinh, đặc biệt là câu 2 (phần chung) và câu 1 (phần riêng). Cách ra đề này có lẽ thích hợp với môn Lịch sử, Giáo dục công dân chăng? (PGS-TS TRẦN HỮU TÁ - Phó chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM) |
KỲ THI TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG TRUNG HỌC NĂM 2009 PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm) Trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn, khách ở quán trà nhà lão Hoa đã bàn về những chuyện gì ? Hãy cho biết điều nhà văn muốn nói qua những chuyện ấy. Câu 2 (3 điểm) Anh/ chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác dụng của việc đọc sách. PHẦN RIÊNG (5 điểm) Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó (câu 3.a hoặc 3.b) Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm) Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục – 2008). Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm) Phân tích vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (phần trích trong Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục – 2008). |
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu 1. Bài làm cần có 3 ý chính sau:
1. Giới thiệu vài nét về tác giả - tác phẩm:
- Tác giả: Lỗ Tấn (1881 – 1836) là nhà văn lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX.
- Tác phẩm Thuốc là truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân thanh niên số 5/1919, là bức tranh thu nhỏ về xã hội Trung Quốc tối tăm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Tác phẩm được đánh giá như một “tiếng thét để an ủi những người chiến sĩ” và để cảnh tỉnh tinh thần nhân dân, truyền cho họ ý chí nghị lực bước vào giai đoạn đấu tranh mới.
2. Câu chuyện của những người khách trong quán trà nhà ông bà Hoa Thuyên:
- Bàn về cái chết của người tử tù Hạ Du và cho rằng anh ta là kẻ “điên rồi”.
- Bàn về việc ông Hoa Thuyên mua được chiếc bánh tẩm máu người tử tù.
- Bàn về hiệu quả của liều thuốc được truyền tụng trong dân gian chữa bệnh lao bằng bánh bao chấm máu tươi của người.
3. Điều nhà văn muốn nói qua những chuyện ấy:
- Phê phán tuyệt đại bộ phận nhân dân Trung Hoa thời kỳ ấy ngu muội, lạc hậu, như đang “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”; xã hội Trung Quốc là một “con bệnh trầm trọng” đòi hỏi một liều “thuốc” mới, cần phát quang một “con đường” mới.
- Tỏ thái độ đau xót, tiếc thương cho người chiến sĩ chiến đấu hy sinh cho quần chúng mà quần chúng “ngu muội quá đỗi” không hiểu. Cùng với ý nghĩa trên, tác giả đưa ra tư tưởng chủ đề của tác phẩm: cần có liều “thuốc” mới chữa căn bệnh rời rã của quốc dân.
Câu 2. Có thể tham khảo những luận điểm chính sau đây (không cần thiết tuân theo thứ tự):
- Vai trò của sách trong thời đại thông tin nghe – nhìn: khẳng định các phương tiện thông tin nghe – nhìn đang phát triển ngày nay không thể thay thế được hoàn toàn cho việc đọc sách.
- Tác dụng của việc đọc sách:
+ Cung cấp thông tin, tri thức mọi mặt.
+ Bồi dưỡng giáo dục, nâng cao khiếu thẩm mĩ.
+ Giáo dục đạo đức, tình cảm, hoàn thiện bản thân.
+ Đọc sách là cái đích hướng đến của tất cả mọi người trong khát vọng chinh phục tri thức.
Câu 3.a. Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
1. Giới thiệu tác giả tác phẩm.
- Tác giả Tô Hoài (sinh năm 1920): nhà văn thành danh từ trước Cách mạng Tháng Tám, là cây bút trụ cột của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ rút từ Tập truyện Tây Bắc, viết năm 1953, là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả. Câu chuyện kể về cuộc đời đau khổ của đôi trai gái dân tộc Mèo, cho thấy quá trình phản kháng của nhân dân miền núi từ tự phát đến tự giác. Qua đó Tô Hoài muốn khẳng định: chỉ có đi theo con đường cách mạng thì con người mới thực sự làm chủ cuộc sống của mình.
2. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Khái niệm giá trị nhân đạo: Người đọc đến với văn học không chỉ để trau dồi kiến thức, thưởng thức thẩm mĩ mà còn vì nhu cầu hướng thiện. Giá trị nhân đạo của tác phẩm biểu hiện ở việc khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người, đồng cảm với những khát vọng nhân bản, phê phán sự nô dịch con người về tinh thần lẫn vật chất,…
- Giá trị nhân bản được thể hiện cụ thể trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ:
+ Tấm lòng xót thương của tác giả khi miêu tả số phận của Mị và A Phủ: phân tích những nỗi đau khổ của Mị và A Phủ, từ những con người đẹp đẽ, yêu tự do, có khát vọng sống đã bị vùi dập như thế nào, trở thành những số phận bi đát ra sao.
+ Đồng tình, cổ vũ khát vọng sống của con người: phân tích tiềm năng sống của nhân vật Mị được khơi dậy trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cắt dây cởi trói cho A Phủ.
+ Lên án thế lực cường quyền, thần quyền tàn bạo chôn vùi số phận con người
+ Đề xuất giải pháp tối ưu nhất cho con người thoát khỏi đau khổ: khẳng định con đường “đấu tranh là hạnh phúc”.
- Suy nghĩ sâu hơn từ tác phẩm (phần mở rộng): Khẳng định tấm lòng ưu ái, đầy xúc động và cảm thông của nhà nhân đạo chủ nghĩa Tô Hoài đối với người dân miền núi – một trong những đề tài mới mẻ của văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, cho thấy niềm tin yêu của tác giả vào tiềm năng sống của con người, vào con đường giải phóng của cách mạng.
Câu 3.b.
I. Giới thiệu: tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp hình tượng dòng sông qua bút pháp tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
II. NỘI DUNG CHÍNH: (thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng phải đảm bảo những ý chính sau đây)
Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp sông hương ở nhiều góc độ: từ thượng nguồn tới khi qua kinh thành Huế; từ tự nhiên, lịch sử văn hoá, nghệ thuật.
1. Vẻ đẹp sông Hương ở thương nguồn:
- Ở đấy ta gặp một dòng sông đẹp, mạnh mẽ được ví như “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, sông như bản trường ca; sông như cơn lốc, sông như cô gái Di gan và nâng lên thành vẻ đẹp cao cả: “người mẹ phù sa”
- Tác giả tăng vẻ đẹp cho dòng sông bằng nghệ thuật nhân hoá.
2. Vẻ đẹp sông Hương trước khi về kinh thành Huế:
- Hương giang như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”
- Dòng sông mềm như tấm lụa (hình dáng)
- Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím (màu sắc)
- Trôi chậm như mặt hồ yên tĩnh (dòng chảy)
Tất cả đều đó tạo nên một vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí như cổ thi.
Khi dòng sông chảy vào thành phố, tác giả đã có những phát hiện độc đáo về sông Hương.
3. Vẻ đẹp sông Hương chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố
Nó mang vẻ đẹp như chiều sâu hồn người:
Như xa lâu ngày gặp lại cố nhân kinh thành thân yêu nên sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của cùng ngoại ô Kim Long”.
+ Cảm xúc như trào dâng, dòng sông chợt mềm hẳn đi, say đắm lạ thường “như tiếng vâng không nói ra của tình yêu”
+ Dòng sông như lưu luyến lúc rời xa kinh thành, Nó tựa như một “nỗi vấn vương” và cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Lối so sánh tài tình và nhân cách hoá độc đáo làm người đọc ngây ngất và tâm hồn thăng hoa theo dòng sông đa tình như một khách hào hoa phong nhã .
4. Vẻ đẹp khác của sông Hương:
- Dòng chảy lịch sử.
- Dòng chảy của văn hoá và thi ca.
- Dòng sông đi vào đời thường “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước”.
III. Kết luận:
- Sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ, bằng bút pháp tài hoa và văn phong mềm mại, tạo nên đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của kinh thành.
- Đó là những phát hiện thú vị của tác giả, giúp chúng ta thêm tự hào và yêu đất nước.
TS. Phạm Thị Phương, TS. Đinh Phan Cẩm Vân
(TT Bồi dưỡng văn hóa và Luyện thi ĐH Vĩnh Viễn)
Bình luận (0)