Cái cửa hàng ăn uống thời mậu dịch tọa lạc ngay trước Công ty xổ số kiến thiết. Trên ô văng, chĩnh chện một hàng chữ đúc bằng xi măng xám ngoét Điểm Tâm - Giải Khát. Mấy cái bàn đá granito sứt sẹo chân sắt han gỉ mặt láng nhờn những mỡ.
Dăm ba ông khách đầu đội mũ cối vội vã xì xụp ăn uống. Vài cô mậu dịch viên tạp dề ngả màu cháo lòng gác chân lên ghế khinh khỉnh. Ngoài thứ nước bột đậu xanh nhờ nhờ và nước chanh không đá, cái cửa hàng này còn bán cả phở. Một thứ quà xa xỉ mà thời đó không thể tìm thấy ở bất cứ đâu ngoài mậu dịch quốc doanh.
Sau năm 75, mấy chị em tôi theo bố mẹ rời ngôi nhà gianh lụp xụp trên cái nền cũ của Chùa Cầu – nơi gia đình tôi sơ tán bom Mỹ, để trở về thị xã Bắc Giang sinh sống. Đối với tôi, một thằng bé gốc gác thành thị nhưng sinh ra và lớn lên ở nhà quê, cho đến lúc đó cái khái niệm về phở còn lờ mờ lắm.
Cái hôm mẹ tôi dắt đến trường Ngô Sỹ Liên để nhập học lớp Hai, đi qua cái cửa hàng ăn uống kia, tôi đã nhìn thấy tấm bảng gỗ có hàng chữ viết bằng phấn lem nhem sai chính tả. Phở à, lạ nhỉ. Tôi tò mò định hỏi song hình như mẹ cố ý kéo tôi đi nhanh hơn.
Cái thời bao cấp khốn khổ ấy nó làm cho những gia đình nhà giáo như gia đình tôi lúc nào cũng chỉ nơm nớp lo hết gạo, hết mì sợi, hết tem phiếu chứ đừng nói là dám tơ tưởng đến phở. Bác Hợp “Xồm”, bạn cố tri của gia đình tôi túng quá tức cảnh làm bài thơ “Khóc thùng gạo” có đoạn:
Ơ hay ! Không biết làm sao nhỉ
Cứ đến đôi mươi dạ rối bời
Gạo bột trong thùng trơ đáy gỉ
Hòm không lăn lóc ống bơ ngơi…
“Đôi mươi” ở đây là khoảng ngày 20 trở ra của tháng. Gạo mua theo sổ thường 29, 30 cuối tháng mới bán. Có tháng còn phải duyệt sổ gạo mất mấy ngày. Bây giờ nói chuyện đó bọn trẻ không hiểu được.
Quay trở lại chuyện phở.
Lần ấy, giáo viên trường mẹ tôi dạy đều phải mua một tấm vé xổ số kiến thiết để đóng góp xây dựng thị xã. Mẹ tôi gấp tờ vé cẩn thận lắm. Người kẹp sâu trong quyển giáo án. Bố tôi đùa, mẹ mày đận này chắc dễ trúng xe đạp quá. Cả nhà có mỗi chiếc xe đạp từ thời ông nội để lại hiệu Sterling của Pháp, bền lắm. Mấy chục năm mà phụ tùng vẫn tốt. Duy có săm lốp hiếm, quấn dây cao su mãi đến lòi cả tanh ra ngoài nên bố tôi đành treo gác bếp mà đi bộ.
Mẹ tôi trúng xổ số thật. Giải Năm hẳn hoi. Hồi đó, giải Nhất là một chiếc xe đạp Thống Nhất, giải Năm là một cây bút máy Kim Tinh.
Bố tôi cũng có một cây bút Kim Tinh. Cây bút màu cà-phê sữa nắp bằng hợp kim trắng bóng, đầu khảm hình mũi tên vàng, thân khắc dòng chữ in hoa “Kỷ Niệm Mặt Trận Trị - Thiên - Huế”. Cây bút đó là của chú Bảy gửi từ chiến trường Thành cổ Quảng Trị ra tặng bố tôi. Chỉ mới tính đến giá trị vật chất, cây bút Kim Tinh đã là cả một tài sản. Một ước mơ của những nhà giáo có hơn chục năm trong nghề như mẹ tôi.
Sáng hôm ấy, mẹ dắt tôi đi lĩnh thưởng. Gương mặt người vui lắm. Chắc người nghĩ đã đến lúc không còn phải cặm cụi soạn giáo án bằng cây bút gỗ, ngòi con tôm chấm mực nữa. Chắc mẹ nghĩ đến việc chỉ cần hút mực đầy ruột bút là có thể viết được cả tuần lễ mà không cần mang theo lọ mực xanh Cửu Long lên lớp nữa. Mẹ tôi vui lắm.
Bà nhân viên trả thưởng sau khi soi xét kỹ tờ vé, lấy con dấu đã trả thưởng đóng cái cộp vào mặt sau, cất giọng hỏi lấy tiền hay lấy hiện vật. Lấy tiền à, bao nhiêu. Mười đồng. Mẹ tôi đắn đo…
Chả theo dõi cuộc trao đổi làm gì, tôi đang bận nghển cổ sang phía cái cửa hàng có dòng chữ “Điểm Tâm - Giải Khát” bên kia đường. Thấp thoáng sau cái tủ gỗ quây vừa bằng lưới thép, vừa bằng kính nào là thịt bò nguyên miếng đỏ tươi, nào là hành dọc xanh mởn, rổ bánh phở chưa thái trắng phau. Rồi ớt, tỏi, chanh, giấm và cả đĩa lớn bánh quẩy vàng rộm. Trên bếp than hồng rực, nồi nước dùng ninh xương bò kêu sùng sục. Hơi bốc nghi ngút tỏa mùi thơm sang tận bên này đường làm cho đôi môi tôi đang tái nhợt vì lạnh cũng như hồng lại.
Mẹ tôi tay mân mê chiếc bút Kim Tinh màu xanh đen bóng, nắp mạ vàng chói. Bỗng bắt gặp ánh mắt của tôi đang hút về phía cửa hàng phở. Tần ngần một lát, người dắt tay tôi quả quyết sang đường.
Cầm cái tích kê trên tay, mẹ tôi lại gần cái ô cửa có song sắt hình vuông thấp lè tè loáng thoáng mấy cái tạp dề đã ngả màu đang đi lại. Lát sau, mẹ trở ra vẻ mặt rạng lên với một bát phở trên hai tay.
Phở ! Đúng là phở thật. Lần đầu tiên tôi mục sở thị một bát phở, một bát phở mậu dịch quốc doanh hẳn hoi. Một bát phở tôi sắp sửa được ăn thật chứ không phải trong mơ. Khứu giác của tôi như bị hút vào nó. Lờ mờ trong màu nước dùng đùng đục bốc khói tỏa ra một hương vị mà từ bé đến giờ tôi chưa từng được ngửi. Thấp thoáng vài lát thịt bò mỏng như không thể mỏng hơn. Những sợi bánh phở thái to nghiêng ngả quấn lấy nhau một cách hờ hững. Vài ba củ hành dọc tráo đầu đuôi nửa nổi nửa chìm… chỉ ngần ấy thôi cũng đã đủ làm cho cái thằng tôi tứa nước bọt, tay chân lập cập với những đũa, những thìa mà không còn đủ tỉnh táo để thấy rằng mẹ chỉ mua một bát phở cho tôi còn người thì ngồi bên cạnh nhìn tôi ăn.
Tôi cắm đầu ăn thẳng một mạch. Phở nóng làm cho mồ hôi trên trán rịn ra. Ngoài kia trời tháng Ba lành lạnh nhưng hai má tôi ửng hồng lên tự bao giờ. Sau khi húp đến giọt nước dùng cuối cùng trong bát tôi buông đũa nhìn lên, bắt gặp ánh mắt chứa chan niềm yêu thương xen lẫn hạnh phúc của mẹ. Người đã ngồi nhìn tôi ăn nãy giờ. Lấy khăn mùi xoa lau nhẹ mồ hôi trên trán tôi, đôi bàn tay gầy nổi những sợi gân xanh của mẹ một đời vất vả, nhịn nhường. Đôi bàn tay của một thời con bồng con bế…
Bát phở những một đồng.
Cây bút Kim Tinh mười đồng.
Mẹ mang về chín đồng vừa đủ mua hai cái lốp xe đạp gia công cho bố đi dạy học xa.
Tôi lớn lên đi khắp đó đây, từng thấy nhiều của ngon vật lạ nhưng cam đoan rằng không có gì ngon bằng bát phở mậu dịch một đồng mẹ mua cho tôi ăn ngày ấy.
Đặng Hồng Sơn
Yêu quý tặng mẹ của con
Bình luận (0)