Công dụng
Nghệ là tên gọi chung, nghệ có mấy loại sau: nghệ vàng (còn có tên gọi là khương hoàng - củ già; uất kim - củ non); nghệ tím (còn có tên gọi khác là nghệ xanh, ngải xanh, nga truật, nghệ đen); nghệ trắng; nghệ đỏ (thường được dùng mài củ nghệ khô ra làm thuốc bóp cho gà chọi để săn chắc da).
Theo Đông y, nghệ vàng có vị cay đắng, tính hàn, có tác dụng hành khí, giải uất, lương huyết, quy kinh tâm, can, phế, vị. Trong nghệ vàng có hoạt chất curcumin được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi. Theo các nghiên cứu gần đây người ta thấy rằng nghệ vàng có tính chất kháng khuẩn, tiêu hóa chất béo, bảo vệ gan, làm lành vết thương, giúp tăng tiết mật, kháng viêm, giảm đau, thường được dùng cho những bệnh nhân bị viêm loét bao tử, rối loạn tiêu hóa, phụ nữ sau sanh, bệnh gan mật, kinh nguyệt không đều, bôi đắp vết thương, vết bầm. Còn nghệ đen (nga truật) có vị cay đắng, tính ôn (ấm) quy kinh can, tỳ, có tác dụng kháng khuẩn, kiện vị, hành khí, khứ ứ. Thường được dùng trong các chứng đầy hơi do lạnh, thống kinh, viêm loét bao tử, tan máu bầm. Theo một số nghiên cứu, hoạt chất trong nghệ đen có tác dụng phá và ức chế tế bào ung thư gan khi được dùng chung với một vài vị thuốc khác như tam lăng....
Trong dân gian, nghệ vàng (khương hoàng ) được dùng làm gia vị có màu vàng và mùi thơm, dùng để tẩm ướp thức ăn, làm cho món ăn có màu và dễ tiêu hóa hơn.
Một số cách dùng trị bệnh
Trong một vài trường hợp viêm loét bao tử, người ta dùng nghệ vàng, hoặc nghệ đen phơi khô, xay thành bột, sau đó trộn chung với mật ong với tỷ lệ 1/1 dùng uống mỗi ngày, mỗi lần 1 muỗng cà phê với nước ấm. Phụ nữ sau khi sanh được cho ăn các món kho với củ nghệ tươi hoặc uống bột nghệ vàng mỗi ngày một hai muỗng cà phê giúp tiêu sạch huyết ứ, da dẻ hồng hào, ít bệnh tật.
Phụ nữ bế kinh dùng: khương hoàng 10 gr, nga truật 10 gr, tam lăng 10 gr, hồng hoa 6 gr, đào nhân 6 gr, xuyên khung 8 gr, quy vĩ 12 gr đem nấu với 600 ml nước, nấu còn 200 ml, chia 2 lần uống trong ngày. Phụ nữ đau bụng trước khi hành kinh, dùng uất Kim 12 gr, đương quy 12 gr, hoàng cầm 12 gr, hương phụ 8 gr, bạch thược 12 gr, huyền hồ 6 gr, ngải diệp 12 gr, sắc uống như trên. Người bị viêm gan mãn tính, xơ gan thời kỳ đầu, đau tức vùng hông sườn, rối loạn tiêu hóa thì dùng nga truật 12 gr, tam lăng 12 gr, bản lam căn 12 gr, uất kim 8 gr, chi tử 8 gr, bạch thược 12 gr, mộc hương 4 gr, long đởm thảo 8 gr, hồ liên 8 gr, linh chi 12 gr, sơn tra 8 gr, đương quy 12 gr, đảng sâm 12 gr, đơn sâm 12 gr, bán chi liên 12 gr, nhân trần 12 gr, táo 3 trái, gừng tươi 3 lát. Nấu nước thứ 1 với 800 ml nước còn 200 ml, nước thứ 2 với 600 ml nước còn lại 200 ml, hòa chung 2 nước thuốc, chia ra 2 lần uống trong ngày.
Lương y Trần Duy Linh
Bình luận (0)