Băn khoăn của tư lệnh chiến dịch

05/05/2010 01:12 GMT+7

Kết luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại cuộc họp ngày 14.1.1954 cho thấy dường như ông không đặt hết tin tưởng vào cách “đánh nhanh giải quyết nhanh”, mặc dù ông vẫn tỏ ra tôn trọng ý kiến tập thể.

Điều băn khoăn này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện trong hồi ký: “Từ hội nghị Thẩm Púa tới khi đưa pháo vào trận địa đối với tôi là một thời gian rất dài. Nhiều đêm thao thức. Suy tính, cân nhắc rất nhiều lần, vẫn chỉ tìm thấy rất ít yếu tố thắng lợi. Tôi căn dặn các phái viên đi nắm tình hình, thấy bất cứ điều gì đáng chú ý đều phải báo cáo kịp thời. Mọi người đều phản ánh tinh thần chuẩn bị chiến đấu rất cao của cán bộ, chiến sĩ. Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn nói với tôi trong quá trình chiến đấu, sẽ phải đột phá liên tục ba lần mới vào được trung tâm. Nhưng đây chỉ là sự tính toán công việc phải làm. Đại đoàn trưởng 308 Vương Thừa Vũ, đảm nhiệm mũi thọc sâu, hoàn toàn giữ im lặng. Sang ngày thứ chín, hai ngày trước khi nổ súng, đồng chí Phạm Kiệt, Cục phó Cục Bảo vệ, theo dõi việc kéo pháo ở phía Tây, đề nghị gặp tôi qua điện thoại. Anh Kiệt nhận xét: “Pháo của ta đều đặt trên trận địa dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo hoặc máy bay đánh phá sẽ khó tránh tổn thất. Một số pháo vẫn chưa kéo được tới trận địa”. (Tổng tập Hồi ký, Sđd, tr. 921, 922).

Điều cần nói thêm ở đây là các khẩu pháo 105 mm của ta được ô tô kéo vào cách trận địa dã chiến từ 9 đến 12 km tùy theo vị trí bố trí. Ngày bắt đầu kéo pháo bằng tay là 15.1.1954, với dự kiến ban đầu là chỉ 4 - 5 ngày pháo sẽ vào nơi bố trí trận địa. Nhưng thực tế lại không như vậy. Do đường mới mở tạm để kéo pháo, lại nhiều đèo dốc, bộ đội chưa có kinh nghiệm kéo các khẩu pháo nặng trên 2 tấn, trong khi máy bay của Pháp liên tục quần lượn, bắn phá, nên tốc độ kéo pháo rất chậm. Đến trước ngày 20.1, ngày dự định nổ súng, pháo vẫn chưa vào đến vị trí, buộc bộ chỉ huy chiến dịch phải lùi ngày nổ súng đến 25.1.1954.

Tướng Navarre và Cogny kiểm tra công tác bố phòng của quân Pháp

Mặt khác, cứ mỗi ngày trôi qua, tin tức từ ba nguồn: các đơn vị đang triển khai bao vây, từ trinh sát của Bộ và từ tin của địch thu qua vô tuyến điện dồn dập báo về Sở chỉ huy cho thấy quân Pháp đang khẩn trương tăng thêm lực lượng sự bố phòng, đặc biệt là ở các điểm cao phía đông tập đoàn cứ điểm, khiến đại tướng càng thêm suy nghĩ. Ông nhớ lại: “Tôi được biết ở Mường Thanh, quân địch đã có thêm nhiều xe tăng và trên bốn chục khẩu pháo 105 và 155 ly. Ở nhiều cứ điểm, địch đã xây dựng công sự kiên cố. Tôi đặc biệt chú ý hệ thống công sự phụ, những hàng rào dây thép gai và bãi mìn địch không ngừng mở rộng mỗi ngày, có nơi đã rộng tới hơn 100 mét, thậm chí 200 mét. Ngày 24.1.1954, Cục 2 báo cáo, trong ngày địch vừa tăng cường cho Điện Biên Phủ thêm một tiểu đoàn, đưa lực lượng lên tới 10 tiểu đoàn (thực tế lúc đó địch đã có 12 tiểu đoàn). Những cứ điểm phía tây, nơi mũi chính Đại đoàn 308 sẽ đột phá, tuy không mạnh như một số cao điểm, nhưng nằm trên cánh đồng trống, bộ đội không có địa hình ẩn náu, địch dễ sử dụng xe tăng, pháo binh, máy bay và lực lượng phản kích đối phó. Đồng chí Hiếu (Chánh văn phòng Bộ) nhận xét: “Công tác tư tưởng mới nhắc nhiều tới quyết tâm mà ít bàn tới khắc phục những khó khăn trong trận đánh”. Gần ngày nổ súng, cơ quan tác chiến báo cáo: trung đoàn trưởng Hoàng Cầm ở 312 đề nghị trả lại bớt pháo, vì được trao quá nhiều pháo! Đây là hiện tượng cần chú ý. Chưa bao giờ một đơn vị đột kích lại từ chối pháo phối thuộc”. (Tổng tập Hồi ký, Sđd, tr.923)

Sử dụng cách đánh như thế nào cho hiệu quả, vừa hạn chế tổn thất vừa có thể giành thắng lợi, là biểu hiện rõ nhất tài cầm quân của người chỉ huy ngoài mặt trận. Đây lại là trận đánh quyết định. Điều đó khiến vị tư lệnh chiến dịch càng thêm băn khoăn, suy nghĩ. Đại tướng thổ lộ: “Tôi cảm thấy như cả tháng đã trôi qua. Mỗi ngày, tôi càng nhận thấy rõ là không thể đánh nhanh được. Lời Bác dặn trước lúc lên đường và nghị quyết Trung ương hồi đầu năm lại văng vẳng bên tai: Chỉ được thắng, không được bại, vì bại thì hết vốn!”.

Đại tướng hồi tưởng: “Đêm ngày 25.1.1954, tôi không sao chợp mắt. Đầu đau nhức. Đồng chí Thùy, y sĩ, buộc lên trán tôi một nắm ngải cứu. Tôi đã hiểu vì sao mọi người đều lựa chọn phương án đánh nhanh? Vấn đề tiếp tế khó khăn chỉ là một lý do. Chúng ta không phải hoàn toàn không có cách khắc phục khó khăn này. Lý do chính là e thời gian chuẩn bị kéo dài, địch sẽ tăng thêm quân, tập đoàn cứ điểm ngày càng mạnh, sẽ làm ta mất cơ hội tiêu diệt địch. Nhiều người cho rằng sự xuất hiện lần đầu của lựu pháo và cao xạ sẽ làm quân địch choáng váng. Nhưng chúng ta chỉ có vài ngàn viên đạn? Đặc biệt, mọi người đều tin vào khí thế của bộ đội khi xuất quân, tin vào sức mạnh tinh thần. Nhưng sức mạnh tinh thần cũng có những giới hạn. Không phải chỉ với sức mạnh tinh thần cao mà lúc nào cũng chiến thắng quân địch! Chúng ta cũng không thể giành thắng lợi với bất kể giá nào, vì phải giữ gìn vốn liếng cho cuộc chiến đấu lâu dài”. (Tổng tập Hồi ký, Sđd, tr.923, 924).

Ba khó khăn hiện lên rất rõ.

Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, chúng ta mới đánh vào vị trí tiểu đoàn, dưới tiểu đoàn, công sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận không thành công, bộ đội thương vong nhiều.

Thứ hai, trận này tuy ta không có máy bay, xe tăng, nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với quy mô lớn lần đầu, mà lại chưa qua diễn tập. Có trung đoàn trưởng xin trả lại pháo vì không biết phối hợp thế nào!

Thứ ba, bộ đội ta từ trước đến nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm công kiên ban ngày trên địa hình bằng phẳng, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15 km, rộng 6-7 km...

Theo đại tướng thì tất cả mọi khó khăn đó đều “chưa được bàn bạc kỹ và tìm cách khắc phục”. Nhưng giờ giải quyết ra sao thì chính ông cũng chưa biết rõ...

PGS-TS Nguyễn Mạnh Hà

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.