Hát những bài hát yêu nước giữa Sài Gòn
Khoảng đầu thập niên 1950, khi các rạp chiếu bóng ở Sài Gòn còn đang thịnh hành kiểu hát phụ diễn (hát trước giờ chiếu phim) thì có một đôi uyên ương từ Huế vào và ngay lập tức tạo nên sự “bùng nổ” trên sân khấu.
Chàng vóc người cao dong dỏng, ôm guitar thùng và chất giọng trầm ấm thiên phú hòa vào tiếng hát lảnh lót, thoảng nhẹ như gió của nàng. Làng giải trí Sài Gòn xôn xao bởi họ không hát nhạc Tây (lời Pháp hoặc đặt lời Việt) như nhiều ca sĩ bấy giờ mà dân Sài Gòn lần đầu tiên nghe được những bài hát yêu nước do chính người Việt sáng tác. Đó là những Lời người ra đi, Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Bà mẹ quê, Bà mẹ Gio Linh (Phạm Duy), Có một đàn chim (Phan Huỳnh Điểu)… và cả những ca khúc trữ tình, thấm đẫm phong vị làng quê như Gạo trắng trăng thanh, Trăng rụng xuống cầu (Hoàng Thi Thơ)…
Thời ấy, báo chí Pháp ngữ và Việt ngữ ở Sài Gòn hầu như ngày nào cũng viết bài, đăng ảnh của đôi uyên ương này. Rồi những hãng đĩa ghi âm vào cuộc. Chỉ tính 2 ca khúc Gạo trắng trăng thanh và Trăng rụng xuống cầu do hãng đĩa Asia phát hành trên khắp Đông Dương đã bán được hàng triệu đĩa (con số này vẫn là kỷ lục cho đến nay). Đến nỗi một hãng ghi âm khác đã đề nghị tặng Nguyễn Hữu Thiết chiếc xe hơi Consul mới cáu để ông chuyển qua ghi âm cho hãng này.
Nguyễn Hữu Thiết sinh năm 1927 tại Phan Thiết (quê gốc Triệu Phong, Quảng Trị). Từ nhỏ đã có năng khiếu ca hát, nên khi theo học bậc trung học ở Huế và được bà giáo sư âm nhạc người Pháp tận tình dạy bảo ông rất vững về nhạc lý. Khi Cách mạng Tháng 8 bùng nổ thì Nguyễn Hữu Thiết đang theo học ban Tú tài, ông bỏ học ôm đàn cùng bạn bè (Nguyễn Hữu Ba, Phạm Duy, Bùi Công Kỳ…) tham gia phong trào văn nghệ yêu nước ở Huế. Khi chiến tranh lan đến Huế, Nguyễn Hữu Thiết đã cùng nhóm bạn bè văn nghệ này kéo nhau lên chiến khu Tuyên Hóa (Quảng Bình) tiếp tục phục vụ kháng chiến. Chính tại đây, ông gặp lại cô ca sĩ Ngọc Cẩm (sinh năm 1931, quê Phú Vang, Huế) mà trước đây họ đã từng mến mộ nhau trong những ngày tháng sinh hoạt văn nghệ ở Huế. Họ chính thức kết hôn vào năm 1948, lễ cưới diễn ra ngay trong chiến khu. Cuối năm đó, đôi uyên ương còn theo đoàn quân tình nguyện ra tận các chiến khu ở Tuyên Quang, Thái Nguyên… Tuy nhiên, đến cuối năm 1953 do sức khỏe của Ngọc Cẩm không cho phép theo đuổi cuộc kháng chiến trường kỳ nên cấp trên đã cho phép vợ chồng họ được trở về hoạt động ở Liên khu 4. Đầu năm 1954, họ trở về Huế.
Những ngày ở Huế, đôi uyên ương Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm lao vào khổ luyện, quyết tâm tạo cho mình một phong cách song ca thật độc đáo. “Gia tài” quý hiếm của họ chính là những ca khúc yêu nước mà trước đây đã từng theo họ rong ruổi trên bước đường phục vụ chiến đấu. Các ca khúc này được họ thổi vào những vùng tạm chiếm như một luồng gió mới và được công chúng say sưa đón nhận. Tuy nhiên, mảnh đất Thần kinh vốn chật hẹp, hầu như không đủ chỗ để đôi uyên ương này vẫy vùng, múa hót và thế là họ đưa nhau vào Sài Gòn. Và như đã kể ở trên, người Sài Gòn đã đón nhận họ một cách nồng nhiệt.
“Hiện tượng” Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm
Trên sân khấu ca nhạc Sài Gòn vào nửa cuối thập niên 1950, có đến ba cặp uyên ương gồm: Mạnh Phát - Minh Diện, Châu Kỳ - Mộc Lan và Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm. Mỗi cặp đều có nét đặc sắc riêng, nhưng cặp Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm hoạt động “rầm rộ” hơn cả. Ngoài “hiện tượng” ghi âm hai bài hát Gạo trắng và Trăng rụng (thời đó, người mua thích gọi tắt như vậy), còn có sự ra đời của Ban dân ca Nguyễn Hữu Thiết (Ban Hương Giang) hát ở đài phát thanh với sự cộng tác của nhiều ca sĩ tài danh: Thái Thanh, Mai Hương, Thanh Thúy, Tuyết Hằng, Thanh Tuyền… Nhạc công có: Nghiêm Phú Phi (piano), Y Vân (contre bass), Nguyễn Hiền (flute), Đan Thọ, Nguyễn Quý Lãm, Đặng Văn Hiền (violon), Xuân Lôi, Xuân Tiên (saxo)… Không chỉ hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn, họ còn lập ra Đoàn ca múa nhạc tạp kỹ Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết để đi lưu diễn ở nhiều tỉnh trong nước và ở cả Lào, Campuchia. Thường có mặt trong đoàn này là Ban hợp ca Thăng Long, kỳ nữ Kim Cương, quái kiệt Trần Văn Trạch, các nghệ sĩ Bảy Xê, Ba Vân, Bích Sơn, Bích Thuận, vũ bộ Mỹ An…
Hoạt động âm nhạc của Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm không chỉ có “bề nổi” làm người ta chú ý mà chính sự chung thủy, bền bỉ sát cánh bên nhau của hai ông bà mới khiến cho công chúng quý trọng, nể phục. Tiếng hát của họ quyện vào nhau từ thời còn son trẻ cho đến lúc ông bước qua ngưỡng “cổ lai hy”, được người khác dìu lên sân khấu, ngồi vào chiếc ghế gỗ. Bà vẫn đứng hát bên cạnh ông nhưng giờ đây không chỉ có hai giọng hát mà hòa vào làn hơi ấy còn có tiếng hát của nữ ca sĩ Hồng Hạnh - cô con gái yêu của họ.
Bà Ngọc Cẩm vốn có tiếng là “mắn đẻ”. Thời thiếu phụ của bà hầu như lúc nào cũng đang ở vào giai đoạn… thai kỳ. Hết đẻ người con này lại mang thai người con khác. Con gái thì lót chữ “Hồng”, con trai thì đệm chữ “Trường”: Hồng Hà, Hồng Danh (ca sĩ), Hồng Hạnh (ca sĩ), Hồng Đức, Hồng Vinh; Trường Sơn, Trường Thọ, Trường Thắng. Hồi còn sống, ông Thiết lý giải: “Trường” là để kỷ niệm những gian khổ tháng ngày chúng tôi vượt Trường Sơn ra Bắc, còn “Hồng” là để nhớ giai đoạn gian khổ nhưng chúng tôi vẫn hạnh phúc bên nhau ở vùng chiến khu Tuyên Quang, Thái Nguyên cạnh dòng sông Hồng…
Không “hợp, tan” như nhiều đôi uyên ương khác, đôi song ca Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết đã dìu nhau đi hết chặng đường nghệ thuật và cả trọn đường trần. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 31.10.2002 trong vòng tay của vợ con, thọ 75 tuổi.
Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực ca hát, Nguyễn Hữu Thiết còn là một nhạc sĩ sáng tác. Từ tác phẩm đầu tay Đợi con về (viết năm 1946), cho đến nhạc phẩm cuối cùng Anh nhớ về thăm mẹ (2002) là một quãng thời gian hơn nửa thế kỷ miệt mài lao động nghệ thuật, với những ca khúc đã trở nên quen thuộc và được công chúng ưa thích như: Chàng là ai?, Nàng là ai?, Ai đi ngoài sương gió, Gởi người tôi yêu, Giọt mưa chiều hay nước mắt em?, Tìm mãi thương yêu, Tình trao xuân nữ, Mưa chiều nhớ nhau… |
Hà Đình Nguyên
Bình luận (0)