Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 2: Sức ép và phản ứng

04/08/2011 00:20 GMT+7

Trong các thập kỷ gần đây, trong quan hệ với VN, TQ đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19.1.1974 tại Hoàng Sa và ngày 14.3.1988 tại Trường Sa.

>> Kỳ 1: Cuộc tranh chấp phức tạp

Sau  các  biến  cố  trên, mặc  dù hai nước đã  bình thường hóa quan hệ năm 1991, song  tình  trạng căng thẳng  trên biển vẫn tồn tại ([1]). Việc thông qua Luật về lãnh hải của CHND Trung Hoa ngày 25.2.1992,  trong đó khẳng định lại yêu sách của TQ  đối  với  hai  quần  đảo Hoàng  Sa  và Trường Sa, lại  làm dấy  lên một  làn sóng  lo ngại mới tại Đông  Nam  Á ([2])  về  những  toan  tính  sâu  xa  của TQ. 

Tháng 2.1995 đến lượt quan hệ TQ - Philippines  trở  nên  căng  thẳng. Philippines  đã  tố  cáo TQ xâm chiếm bằng quân sự một đảo đá nhỏ mà Philippines tuyên bố chủ quyền trong quần đảo Trường Sa. Bộ  trưởng Quốc  phòng  Philippines đã  đưa  ra những tấm ảnh cho thấy các cấu kiện hình đa giác đã được dựng trên những cột thép đảo đá Vành Khăn, mà theo Philippines, đó là các công trình nhà ở lâu dài. Tàu chiến của TQ cũng được quan  sát  thấy tập  trung xung quanh đảo đá này. Philippines đã phản ứng  bằng cách  tăng  cường  thêm  lực  lượng  quân  sự  tại Trường Sa.

Ngày 15.5.1996, TQ gia nhập UNCLOS 1982 và cam kết giải quyết các tranh chấp “phù hợp với  luật pháp quốc tế  đã  được  công  nhận”. Tuy  nhiên, cùng  ngày, TQ công  bố  sắc  lệnh  mở  rộng lãnh hải, trong đó áp dụng việc vạch đường cơ sở cho quốc gia quần đảo vào khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hành  động  này  của TQ  là “bất  hợp  pháp  - đó là điều mà nhiều học giả đều nói tới” và là chủ đề chất vấn  tại Diễn  đàn  khu  vực ASEAN  (ARF).  

Đóng  góp  của  Indonesia  (trong  vai  trò  đồng chủ  trì  với  Canada)  và  các  nước  ASEAN, TQ tại Hội thảo “Kiềm chế các xung đột tiềm  tàng tại biển Đông” từ năm 1993, các sáng kiến về Bộ quy tắc ứng xử giữa VN - Philippines, TQ - Philippines,  nỗ  lực  của  các  bên  liên  quan  trực  tiếp  đã đưa đến việc ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong biển Đông năm 2002 (DOC), một bước ngoặt mới đi đến một giải pháp cho biển Đông.

Tuy nhiên cơn khát dầu lửa và các nguồn tài nguyên biển lại tiếp tục làm  dấy  lên  làn  sóng  lo  ngại mới  về  hành động  lấn chiếm  trên  biển  Đông.  Trong  năm  2007-2009, TQ đưa ra chiến lược “biển xanh”, triển khai căn cứ tàu  ngầm nguyên tử ở Hải Nam, xúc tiến chương trình đóng tàu sân bay, nâng cấp đơn vị hành chính Tam Á, mở tour du lịch ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tháng 11.2008, Tập đoàn dầu khí quốc gia TQ CNOOC thông qua kế hoạch đầu tư 200 tỉ NDT  (29  tỉ USD)  cho  thăm  dò  và  khai  thác  dầu khí ở biển Đông.

TQ cũng  tăng cường sức ép  lên  các  công  ty  dầu  khí  nước  ngoài  (British Petroleum (BP), Conoco Phillips, Exxon Mobil, và Oil & National  Gas  Company  (ONGC)  đang  làm việc trên thềm lục địa VN, tiếp tục duy trì yêu sách đường “lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn và chủ trương “chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp cùng khai thác”. 


Cơ sở của Trung Quốc tại đá Vành Khăn mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa - Ảnh: AFP
 

Tháng 5.2009, tình hình thêm nóng bỏng với việc VN tự trình và cùng Malaysia trình hồ sơ chung ranh giới thềm lục địa ngoài 200  hải  lý  và phản  đối  của  TQ. Phái  đoàn  đại  diện của TQ tại LHQ lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách của nước này với tất cả vùng nước và các đảo trong phạm vi “đường yêu sách lưỡi  bò”. VN và Malaysia cho  rằng  hồ sơ ranh  giới  thềm lục địa của mình được tính từ đường cơ sở đất  liền nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước nào khác.

Tầm quan trọng chính trị,  chiến lược và kinh tế của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đòi hỏi phải có được một giải pháp tổng thể. Nhưng trước hết tranh chấp ở đây phải được coi là tranh chấp pháp lý, trong đó cần dựa trên danh nghĩa pháp lý nào để  xác  định  chủ  quyền  trên  các  quần  đảo  này?

Câu hỏi được đặt  ra  là: đây có phải  là  tranh chấp có  liên quan đến quyền thụ đắc lãnh  thổ được coi  là vô chủ (res  nullius) hoặc là tranh chấp một  vùng lãnh thổ trên đó chủ quyền quốc gia đã được xác định, nhưng với thời gian và sự  phát triển của các sự kiện, lãnh thổ đó trở thành lãnh thổ từ bỏ (terre derelictio)?

Do việc chiếm cứ các đảo  khác nhau tại các giai đoạn khác  nhau và do có quá nhiều các  danh nghĩa khác nhau được đưa ra trên cùng một vùng lãnh thổ. Đã có khá nhiều tác phẩm trong và ngoài nước viết về tranh chấp  chủ  quyền  trên  hai  quần  đảo  Hoàng  Sa  và Trường Sa.

Chúng tôi sẽ cố gắng nghiên  cứu sâu các luận thuyết của mỗi bên tranh chấp dưới ánh sáng của thuyết luật theo thời điểm (Intertemporel).

Luật theo thời điểm do M.Hubert đưa ra lần đầu tiên trong vụ đảo Palmas bao gồm  hai nguyên tắc cơ bản: 

1) Một sự kiện pháp lý phải  được đánh  giá  dưới  ánh sáng  của luật mà nó là đương thời  chứ không phải dưới ánh sáng của luật có hiệu lực vào thời điểm mà tranh chấp nảy sinh hoặc được giải quyết;

2) Một luật lệ không thể duy trì trong một hệ thống pháp luật trừ phi nó phù hợp với các yêu cầu trong  hệ  thống  đó. 

TS Nguyễn Hồng Thao

[1] Quan hệ Việt-Trung đó được cải  thiện đáng kể với việc hai bên nâng  quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược  toàn diện” tháng 5.2008, giải quyết các bất đồng trong vịnh Bắc Bộ năm 2000 và hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt-Trung năm 2008. 

[2] Far East Economic Review  (Tạp  chí  kinh  tế Viễn Đông). FEER, ngày 13.8.1992.

>> Kỳ 3: Sử liệu Trung Quốc nói gì?

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.