>> Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc
Việc nghiên cứu nghiêm túc lại cho ta một sự thật khác hẳn. Những địa danh nêu trong đoạn trích trên đều nằm xung quanh đảo Hải Nam, theo các tác giả VN ([1]) :
- Quỳnh Nhai, tức “Đạo binh bị Quỳnh Nhai” (Đảo Hải Nam) đời Thanh, sở tại Quỳnh Sơn gần thị trấn Hải Khấu ngày nay, phía bắc đảo Hải Nam.
- Đồng Cổ ở mỏm đông bắc đảo Hải Nam
- Thất Châu Dương là vùng biển có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía đông đảo Hải Nam.
- Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía tây đảo Hải Nam.
|
Các địa danh trên đều được tìm thấy trên các hải đồ TQ. Trong hải đồ N 5012 tỷ lệ 1/500.000 do hải quân TQ xuất bản bằng tiếng TQ và tiếng VN tháng 5.1956 có tiêu đề: “Vùng phụ cận Lôi Châu và đảo Hải Nam”, và các bản đồ “Bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam”, và Nam Hải địa hình đo, tỷ lệ 1/300.000.000 do Nhà xuất bản địa đồ TQ xuất bản tháng 5.1984, có nhóm đảo có tên Thất Châu Đảo và vùng biển xung quanh các đảo nhỏ đó ở phía đông nam của đảo Hải Nam được gọi tên đúng là Thất Châu Dương. Rõ ràng tên này không được dùng để chỉ toàn bộ biển phía Nam Trung Hoa. Ngoài ra, trong cuốn Quảng Đông dư địa đồ thuyết in năm 1909, Lý Hàn Chung đã nói về các cuộc tuần biển của hải quân Quảng Đông như sau:
“Biên giới trên biển ngày nay lấy phía Nam đảo Hải Nam làm giới hạn, bên ngoài là Thất Châu Dương, Đô đốc thuỷ quân Quảng Đông đi tuần đến đó là quay về”.
Ở đây một lần nữa, chúng ta không thấy bất kỳ một ghi chép chính xác nào về các đảo Paracel dưới tên gọi Tây Sa.
Hơn nữa, các hành vi quản lý mà TQ viện dẫn, nếu đúng, chỉ liên quan tới các đảo Tây Sa mà không nhắc gì đến các đảo Nam Sa. Đối với Spratly, TQ chỉ nêu ra được sự kiện năm 1883 khi tàu nghiên cứu của Đức tiến hành các nghiên cứu khoa học tại quần đảo Nam Sa, chính quyền Quảng Đông đã phản đối (theo Heinzig, sự kiện này liên quan Tây Sa hơn là tới Nam Sa). Việc phía TQ thiếu một danh nghĩa chiếm hữu của Nhà nước được xác lập một cách vững chắc và từ lâu đời làm cho việc phản đối ngoại giao dựa trên cơ sở quyền thụ đắc theo thời hiệu để ngăn chặn một hành động như vậy không còn giá trị. Đúng hơn nó chỉ được coi như một tham vọng chủ quyền mà thôi.
Để chứng minh cho lập luận của họ, các tác giả TQ viện dẫn tới cả các chuyến đi của Thái giám Trịnh Hòa trong thời gian từ 1405 đến 1433 qua các đảo này. Tuy nhiên các chuyến đi này không được Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ nhắc đến. Các chuyến đi của Trịnh Hòa tới Java, Ấn Độ và bờ biển Phi châu chỉ có giá trị tạo uy danh cho triều Minh ([2]) và Trịnh Hòa cũng không đưa ra một yêu sách tạo lập danh nghĩa chiếm hữu các đảo nào thay mặt thiên triều TQ. ([3])
Các thí dụ kể trên chỉ tạo ra sự nhận biết về các đảo, đúng hơn là một số đảo. Nếu các đảo trong biển Đông được các thủy thủ và ngư dân TQ biết tới là điều không phải bàn cãi thì việc khẳng định chủ quyền TQ trên các quần đảo này thật khó thuyết phục. Trong các sách và văn kiện do TQ trích dẫn, không có một ghi chép nào về quyền phát hiện hoặc sự củng cố một danh nghĩa chiếm hữu các đảo này, và về thực chất không thể hiện ý định thực thi chủ quyền tại đó của họ.
Các sự kiện kể trên diễn ra với khoảng thời gian cách quãng 200-500 năm. Điều đó rõ ràng làm yếu thêm lập luận của TQ, theo đó các Hoàng đế Trung Hoa đã quản lý các đảo này từ hai nghìn năm nay một cách liên tục và không ngắt quãng.
Để chứng minh chủ quyền, cần phải cung cấp các bằng chứng liên quan trực tiếp tới việc chiếm hữu. D.L Bennett, luật gia Mỹ, nhận xét:
“Nếu các đảo hoặc không được quản lý bởi một chính phủ hoặc không được thăm viếng bởi các nhân viên nhà nước, vấn đề đặt ra là liệu những cuộc tiếp xúc riêng rẽ bởi các ngư dân tư nhân TQ có đủ để thiết lập chủ quyền trên Spratly theo luật quốc tế không. Vì vậy giá trị của lập trường chính thức của TQ là đáng nghi ngại”. ([4])
TS Nguyễn Hồng Thao
[1] Vũ Phi Hoàng, Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lãnh thổ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 88; Nguyễn Quang Ngọc, Sđd.
[2] BBC, ngày 27 tháng 11 năm 2008
[3] Năm 2005 Trung Quốc tuyên truyền nhiều về Trịnh Hòa, tổ chức thi "Nhịp cầu Hán ngữ" kỷ niệm các chuyến đi của ông, gọi ông là nhà hàng hải vĩ đại ngang tầm Colombo nhằm mục đích gắn chuyến đi của Trịnh Hòa với quyền phát hiện.
[4] D.L Benne, “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc sử dụng luật pháp quốc tế trong vụ tranh chấp các đảo Spratleys”, Stanford Journal of International Law, quyển 28 (1991-1992), tr. 435.
>> Kỳ 7: Tư liệu phía Việt Nam
Bình luận (0)