Thông báo của ủy ban trao giải nói hai giáo sư được vinh danh nhờ nghiên cứu của họ “về nguyên nhân và kết quả trong nền kinh tế vĩ mô”.
Các nhà đoạt giải đã “phát triển những phương pháp nhằm lý giải các câu hỏi liên quan đến mối quan hệ nhân quả giữa chính sách kinh tế và các biến số kinh tế vĩ mô khác, như GDP, lạm phát, việc làm và đầu tư”, thông báo cho biết.
|
Sargent nghiên cứu về cấu trúc kinh tế học vĩ mô vốn có thể dùng để phân tích những biến đổi cố định trong chính sách kinh tế. “Phương pháp này có thể áp dụng để nghiên cứu mối quan hệ kinh tế vĩ mô khi các hộ gia đình và công ty điều chỉnh các kỳ vọng xảy đến đồng thời với những phát triển kinh tế”, thông báo nói.
Trong khi đó, phương pháp của Sims “cho thấy nền kinh tế bị tác động như thế nào bởi những thay đổi tạm thời trong chính sách kinh tế và các yếu tố khác”.
Mặc dù cả hai đã độc lập nghiên cứu, nhưng thành tựu của họ bổ sung cho nhau, “được tiếp nhận bởi các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trên toàn thế giới…” và “là những công cụ quan trọng trong việc phân tích kinh tế vĩ mô”.
Ông Sargent, 68 tuổi, là giáo sư kinh tế và thương mại tại trường Đại học New York trong khi ông Sims, 69 tuổi, là giáo sư kinh tế và ngân hàng tại trường Đại học Princeton.
Giải Nobel Kinh tế là một giải thưởng duy nhất trong số sáu giải Nobel không được lập ra theo ý nguyện của nhà sáng lập Alfred Nobel .
Giải này được Ngân hàng Trung ương Thụy Điển Riksbank lập vào năm 1968 nhằm kỷ niệm 300 năm ngày thành lập của ngân hàng và tưởng nhớ Nobel. Nó được trao tặng lần đầu tiên vào năm 1969.
Giải thưởng 10 triệu krona Thụy Điển (1,48 triệu USD) của giải Nobel Kinh tế cũng do ngân hàng Riksbank chi trả, không giống như các giải còn lại được tài trợ bởi Quỹ Nobel.
Vào tuần trước, các giải Nobel Y học, Vật lý, Hóa học, Văn chương và Hòa bình cũng đã lần lượt được công bố.
Những người giành giải Nobel trong năm nay sẽ nhận giải thưởng tại các buổi lễ ở Oslo (Na Uy) và Stockholm (Thụy Điển) vào ngày 10.12, ngày mất của ông Alfred Nobel.
Danh sách những người đoạt giải Nobel Kinh tế trong 10 năm qua 2011: Thomas Sargent và Christopher Sims (Mỹ) 2010: Peter Diamond và Dale Mortensen (Mỹ) và Christopher Pissarides (Síp - Anh) 2009: Elinor Ostrom và Oliver Williamson (Mỹ) 2008: Paul Krugman (Mỹ) 2007: Leonid Hurwicz, Eric Maskin và Roger Myerson (Mỹ) 2006: Edmund S. Phelps (Mỹ) 2005: Thomas C. Schelling (Mỹ), Robert J. Aumann (Mỹ - Israel) 2004: Finn Kydland (Na Uy), Edward Prescott (Mỹ) 2003: Robert F. Engle (Mỹ), Clive W.J. Granger (Anh) 2002: Daniel Kahneman (Israel - Mỹ) và Vernon L. Smith (Mỹ) |
Sơn Duân
Bình luận (0)