Trong giai đoạn trước Thế chiến 2, Mỹ từng lên kế hoạch tiến hành chiến tranh cùng lúc trên toàn bộ 5 châu lục.
Các nghiên cứu và tài liệu giải mật vừa được công bố cho thấy những bộ óc quân sự hàng đầu nước Mỹ từng dành hàng chục năm để xây dựng hỗn hợp kế hoạch chiến tranh với cả thế giới. Gần như không đất nước hay vùng lãnh thổ nào nằm ngoài tầm ngắm, kể cả các cường quốc hàng đầu thế giới lúc đó, theo tài liệu Top Secret Correspondence to Mobilization được giải mật từ Cục Văn khố quốc gia Mỹ. Kế hoạch vạch ra đường hướng từ bành trướng sang láng giềng Canada, thôn tính Anh, Pháp, Đức… đến xâm chiếm gần như toàn bộ châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật lẫn Đông Nam Á. Dĩ nhiên, khu vực “sân sau” Trung và Nam Mỹ cũng bị nhắm tới.
Từ học thuyết Monroe...
Cuối năm 1823, Tổng thống thứ 5 của Mỹ James Monroe công bố học thuyết mang tên ông khẳng định quyền can thiệp đảm bảo lợi ích của nước này tại hải ngoại. Theo sử liệu của Bộ Ngoại giao Mỹ, học thuyết Monroe khẳng định việc những đế quốc châu u tăng cường thực dân hóa hay can thiệp vào các quốc gia châu Mỹ bị xem như hành vi xâm lược. Khi đó, Mỹ có quyền đáp trả và sử dụng đến biện pháp quân sự nếu cần thiết.
|
Trong luận văn thạc sĩ năm 2010 tại ĐH Liberty, nhà nghiên cứu Keith T.Ressa phân tích khá chi tiết học thuyết Monroe. Luận văn trích dẫn nhận định của nhà sử học lừng danh Dexter Perkins cho rằng chủ thuyết này ban đầu chỉ nhằm phòng ngừa sự trỗi dậy trở lại của một số nền quân chủ tại châu u vốn sẽ đe dọa sự tồn tại của Mỹ. Dần dần, nó trở thành cốt lõi cho con đường đế quốc, bành trướng thuộc địa mà Mỹ hướng đến. Trong thực tế, học thuyết Monroe đã trở thành nền tảng cho chính sách đối ngoại của Washington suốt hơn 2 thế kỷ. Giới nghiên cứu cho rằng một số tổng thống thuộc cả đảng Dân chủ lẫn Cộng hòa như Theodore Roosevelt, John F.Kennedy hay Ronald Reagan đều có đường lối đối ngoại - an ninh dựa theo các ý tưởng của tiền bối Monroe.
...đến siêu kế hoạch chiến tranh
Hơn 70 năm kể từ khi học thuyết Monroe được công bố, Mỹ không ngừng lớn mạnh sau khi bổ sung một loạt tiểu bang như Louisiana, Florida, Texas, California, Alaska, Hawaii... Tuy nhiên, tính đến thời điểm xảy ra chiến tranh với Tây Ban Nha vào năm 1898, Mỹ chưa có một cuộc chiến giành thuộc địa nào với các nước bên ngoài châu lục. Thêm vào đó, trong cuộc chiến này, Mỹ suýt đối đầu với liên quân Anh, Đức, Nhật, Pháp tại cảng Manila của Philippines. Vì thế, cuộc chiến với Tây Ban Nha đóng vai trò to lớn trong lịch sử Mỹ. Một mặt, nó giúp nước này thâu tóm Philippines, đảo Guam và Puerto Rico, mở ra thời kỳ vượt đại dương tranh giành thuộc địa. Mặt khác, Mỹ nhận ra rằng sẽ có lúc phải đối mặt nguy cơ đồng thời xảy ra chiến tranh với nhiều nước.
Từ học thuyết Monroe và tình hình mới nói trên, Washington quyết định xây dựng một cơ chế phòng ngừa. Theo tài liệu của Cục Văn khố quốc gia, Ủy ban Liên quân (tiền thân của Bộ Tổng tham mưu liên quân Mỹ) liên tục ra đánh giá nguy cơ chiến tranh. Đầu thế kỷ 20, cơ quan này ghi nhận nhiều hoạt động quân sự của các nước và báo hiệu một cuộc chiến giành thuộc địa quy mô lớn sắp xảy ra. Vì thế, chính phủ giao cho Ủy ban Liên quân cùng các chuyên gia xây dựng sẵn những kế hoạch chiến tranh trên khắp toàn cầu. Rút tỉa thêm từ diễn biến và kết cuộc của Thế chiến 1 (1914 - 1918), đến thập niên 1920, các tướng lĩnh Mỹ gần như hoàn thiện một loạt kế hoạch vừa nhằm phòng ngừa chiến tranh vừa là nền tảng để chủ động gây chiến khi cần thiết. Trong đó, mỗi quốc gia hay khu vực tương đương một mã màu. Chẳng hạn như màu đỏ đại diện cho chiến tranh với đế quốc Anh, đỏ đậm là xâm chiếm Canada. Màu đen là đối đầu với Đức, cam tượng trưng cho đối thủ Nhật Bản, xanh lục là Nga, còn màu vàng nghệ đại diện Trung Quốc... Trong đó, kế hoạch xâm chiếm Canada và thôn tính Anh được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất, gần như chỉ còn chờ lệnh của tổng thống là lập tức phát pháo.
Tuy nhiên, giữa lúc giới lãnh đạo Washington còn đang suy xét thì Thế chiến 2 nổ ra nên mọi ý định đều bị gác lại. Dù vậy, các kế hoạch nói trên vẫn vô cùng hữu dụng khi giúp Mỹ tham chiến một cách chủ động, tự tin vì đã có sẵn phương hướng ngay từ đầu. (Còn tiếp)
Sẵn sàng đánh Canada Theo tài liệu Command Decisions từ Cục Văn khố quốc gia Mỹ, vào đầu thập niên 1920, Mỹ đánh giá Anh là đối thủ lớn nhất của mình. Khi đó, Đức vừa bại trận trong Thế chiến 1, Nga thì nội bộ chưa ổn định còn Pháp và Ý đều không đủ thực lực quân sự. Ngược lại, đế quốc Anh có lực lượng hải quân hùng hậu, thuộc địa khắp thế giới và bị cho là vẫn nuôi ý định tái chiếm Mỹ. Ngoài ra, Anh còn có lực lượng ở Canada nên vẫn là sự uy hiếp thường trực. Vì thế, Mỹ đặc biệt chuẩn bị cho một chiến dịch quân sự nhằm vào nước láng giềng phía bắc. Theo Daily Mail, năm 1931, anh hùng không quân Mỹ Charles Lindbergh, người đầu tiên bay xuyên Đại Tây Dương, nhận lệnh dùng máy bay tiếp cận đông bắc Canada để tìm kiếm các vị trí kháng cự yếu nhất tại khu vực này. Đến năm 1935, quốc hội Mỹ chuẩn thuận xây 3 sân bay bí mật sát biên giới 2 nước để làm bàn đạp tấn công bằng không quân. Cùng năm, Mỹ tổ chức cuộc tập trận lớn chưa từng có, đưa quân đồn trú và xây dựng các cơ sở tại vùng Fort Drum, cách biên giới chưa đầy nửa giờ di chuyển. Từ đây, Mỹ có thể huy động lực lượng lên đến 6 triệu binh sĩ đổ bộ vào đông Canada. Khi đó, giới tướng lĩnh Mỹ thậm chí đề nghị dùng đến vũ khí hóa học nhằm đảm bảo khả năng chiến thắng. |
Trọng Kha
Bình luận (0)