Hệ thống pin năng lượng mặt trời |
Ra Trường Sa lần này, các nhà khoa học không chỉ tìm các giải pháp về nước ngọt và rau xanh mà hàng loạt những vấn đề bức xúc khác như xử lý rác thải, trồng loại cây gì mang lại hiệu quả... Tuy nhiên, khả thi nhất vẫn là rau xanh và nước ngọt.
Giải pháp nước tại chỗ
Nguồn nước ngọt chủ yếu cho các đảo hiện nay được tích từ nước mưa qua các bể chứa hoặc phải tiếp từ đất liền. Một số đảo nổi có giếng nhưng chỉ là nước lợ, nên nước ngọt vẫn là câu chuyện dài kỳ cho các đảo. Thiếu nước, sinh hoạt của con người gặp khó đã đành, hàng loạt các hoạt động khác như chăn nuôi, trồng rau đều bị ảnh hưởng theo, tăng thêm cái “khó” cho cả bộ đội lẫn dân. Báo Thanh Niên đã có lần phát động chuyện “hiến kế” về nước ngọt cho Trường Sa, song câu chuyện về nước ngọt vẫn chưa có hồi kết.
Ra đảo lần này có PGS-TS Nguyễn Tấn Phong, Trường đại học Bách khoa TP.HCM, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu biến nước lợ thành nước sinh hoạt, từng được áp dụng thành công ở một số nơi. Sau khi xem xét một số giếng nước tại các đảo và trực tiếp chứng kiến người dân trên đảo dùng nước giếng để tưới rau, TS Phong khẳng định: “Biến nước lợ ở các giếng này thành nước sinh hoạt, thậm chí thành nước uống là điều hoàn toàn có thể”. Thiết bị cho quy trình này gồm một máy phát điện được sử dụng từ nguồn năng lượng mặt trời, có thể hoạt động 10 giờ/ngày. Nước lợ được đưa vào bể chứa, áp dụng quy trình thẩm thấu ngược (RO). Bình quân mỗi giờ, “nhà máy” này có thể cung cấp được 500 lít nước ngọt (khoảng 5 khối/ngày). Thiết bị vận hành không quá phức tạp, lại không phải tốn nhiên liệu đầu vào nên chi phí để có nước ngọt là rất thấp. Nếu đồng loạt áp dụng mô hình này ở các đảo nổi có nước lợ thì đây là giải pháp căn cơ nhất, không chỉ giải quyết nước tại chỗ cho các đảo nổi mà còn có thể hỗ trợ các đảo chìm lân cận, đỡ tốn kém khi phải vận chuyển nước ngọt từ đất liền ra đảo.
Đối với các đảo chìm, do diện tích có hạn nên việc tích nước ngọt qua các bể chứa cũng hạn chế. PGS Phong đưa giải pháp: “Dùng túi ni lông loại dẻo, có thể chịu được nắng gió 5 năm, từng được áp dụng tại đồng bằng sông Cửu Long, đem áp dụng tại các đảo chìm là hợp lý”. Ưu điểm của các túi chứa nước này (2-3 khối/túi) là rất cơ động, có thể đặt bất cứ chỗ nào trống trên đảo, chỉ cần nối máng dẫn nước mưa từ các mái nhà xuống miệng túi là xong. Khi xài hết nước trong túi, có thể gấp lại và cất đi, đợi mùa mưa mang ra dùng tiếp. Nghe PGS Phong trình bày phương án này, bộ đội và người dân ở các đảo rất hy vọng đây sẽ là giải pháp tốt nhất đảm bảo nguồn nước sinh hoạt.
Hiện thực hóa “giấc mơ rau xanh”
Tưới rau bằng nước ngọt là điều quá xa xỉ với bộ đội ở các đảo, nhất là các đảo chìm. Thế mà, đảo nào cũng có “vườn rau thanh niên”, với đủ các loại từ rau muống, mùng tơi, rau cải đến... lá mơ. Tuy nhiên, các vườn rau này nặng tính “trang trí” hơn là hữu dụng. Vì đa số rau trên các đảo chìm được dùng để nấu canh “cho có rau”, chứ nếu luộc xả láng như trong đất liền thì chỉ cần một tuần là... đứt. “Xuống biển tắm, xong lên đứng vào chậu giội qua, lấy nước ngọt ấy tưới rau”, đó là “công thức” mà bất cứ một anh lính nào ở đảo cũng phải thuộc. Một số đảo có thể mở rộng vườn rau nhưng đành chịu vì khan hiếm nước ngọt. Mùa hè, rau tại các đảo xanh mướt, thế nhưng chỉ cần sang đầu mùa mưa bão, nước biển tạt vào vài lần, nếu không che chắn cẩn thận, rau chết ngay đơ. Ngay tại các đảo nổi, người dân vẫn phải che chắn rau bằng những tấm tôn dựng đứng, bịt kín chung quanh để chống nước mặn.
Xem qua các vườn rau từ đảo chìm đến đảo nổi, các nhà khoa học vừa thầm phục tinh thần vượt khó của bộ đội nhưng cũng... lắc đầu trước các kiểu vận dụng chẳng “khoa học” tí nào. Ví như nhìn vào màu xanh “khó tin” của một vài vườn rau, cả thạc sĩ Phạm Hữu Nguyên, Phó khoa Nông học, ĐH Nông Lâm TP.HCM lẫn tiến sĩ Võ Văn Minh, Trưởng khoa Sinh - Môi trường của Đại học Sư phạm Đà Nẵng, đều cảnh báo: “Nếu bón rau bằng phân tươi hoặc nước tiểu, nguy hại về giun sán cùng nhiều loại bệnh khác sẽ rất khó lường!”. Tiến sĩ Minh bày cách: “Trồng rau thủy canh vừa tiết kiệm nước, lại không cần đất và rất cơ động khi di chuyển để “trốn” nước biển tạt vào mỗi khi gió bão. Chúng ta có thể cung cấp phân dưới dạng “viên nén” vừa đỡ công vận chuyển cồng kềnh vừa dễ áp dụng trong các vườn rau tại các đảo chìm. Với các đảo nổi, nên áp dụng các tấm chắn bằng vật liệu composite có khe ở đáy để lắp ghép cho dễ. Nếu gió bên nào thì mình chắn bên đó, giúp vườn rau khỏi cảm giác bịt bùng và thiếu ánh sáng”. Còn thạc sĩ Nguyễn Xuân Hòa, Viện Hải dương học, hiến kế: “Ở các đảo chìm, trồng rong nho là dễ nhất. Chỉ cần một “bể” chừng vài khối là ta có một “vườn rau” ăn quanh năm”. Ông Hòa đã trồng thí điểm loại rau “quý tộc” này tại Cam Ranh, rau phát triển xanh tốt, và khẳng định việc triển khai trồng rong nho tại các đảo Trường Sa là “trong tầm tay”.
Không phải đến hôm nay, các nhà khoa học mới nghĩ đến chuyện giải quyết nguồn rau xanh tại chỗ cho các đảo, song mỗi người bày một kiểu, thậm chí cũng đã từng có dự án triển khai thí điểm trồng rau trong nhà kính tại Trường Sa rồi! Vì một số dự án được “thiết kế” trong đất liền, thiếu tính thực tế nên chưa bao giờ “giấc mơ rau xanh” trở thành hiện thực tại Trường Sa. Lần này, với các giải pháp vừa nêu, bài toán về rau xanh cho Trường Sa đã hé lộ những lời giải khả thi.
Bơm nước ngọt vào bể ở các đảo chìm
Vườn rau trên đảo Trường Sa Đông - Ảnh: Trần Đăng |
Trần Đăng
Bình luận (0)