Sự hiền hòa của Sói - Kỳ 21

14/07/2009 10:35 GMT+7

(TNTT>) Tôi nhận ra rõ ràng rằng mình phải làm việc gì đấy. Sau khi Mackinley kiếu từ, tôi đi đi lại lại trong gian bếp cho đến khi Angus trở về, và tôi không cần phải nói cho anh biết rằng Francis vẫn chưa về nhà. Tôi nói với anh các cần câu vẫn còn ở nhà, và tôi đã giấu đi một cần. Bây giờ anh lộ vẻ bất an.

Tôi nói: “Anh phải đi tìm nó”.

“Chưa đến ba ngày. Nó không phải là đứa con nít”.

“Nó có thể bị tai nạn. Trời đang lạnh. Nó không mang theo tấm chăn nào”.

Angus suy nghĩ, rồi nói ngày mai anh sẽ đi hồ Swallow. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và ôm lấy anh, nhưng anh chỉ đáp lại bằng thái độ xơ cứng và không khoan nhượng. Anh chỉ chờ cho tôi buông anh ra, rồi quay đi như thể không có chuyện gì xảy ra.

Cuộc hôn nhân của chúng tôi vẫn tốt lành khi nào mà tôi không nghĩ về vấn đề ấy. Bây giờ thì tôi không rõ, tôi càng quan ngại về người khác thì họ lại càng không thích. Khi chỉ nghĩ đến mình thì tôi chỉ việc búng ngón tay, thế là các ông sẵn lòng làm theo bất kỳ việc gì tôi muốn. Rồi tôi cố trở thành người tốt hơn và hãy nhìn kết quả: chồng tôi quay người đi và không muốn nhìn vào mặt tôi. Hoặc có lẽ không có vấn đề gì, mà chỉ là do tuổi tác – khi người phụ nữ già đi thì mất sức thu hút và thuyết phục, thế nên họ không làm gì được.

Tôi nói: “Em đi với anh”.

“Đừng có ngốc”.

“Em không chịu nổi khi chờ đợi. Nếu có chuyện gì... xảy ra thì sao?”.

Angus thở dài, hai bờ vai chùng xuống trông như ông cụ già. “Rhu  ơi...”. Anh thì thào ngôn từ âu yếm ngày xưa, khiến cho tôi khẽ rung động. “Anh tin nó sẽ ổn thôi. Nó sẽ trở về sớm”.

Tôi gật đầu, cảm thấy xúc động vì ngôn từ có tình cảm. Thật ra, tôi bám víu lấy ngôn từ này như là sợi dây cứu hộ – dù rằng khi nghĩ lại, nếu tôi thật sự vẫn là người anh yêu mến, tại sao anh không nhìn đến tôi khi chuyện trò?

Khi ánh sáng lịm tắt, tôi cất bước đi dạo, hai túi của chiếc váy phồng lên. Ít nhất tôi nói với Angus như thế; không thể nào biết được anh tin tôi hay không. Vào giờ này trong ngày, mọi người ở Sông Dove đều ngồi dùng bữa, theo đúng giờ giấc như một đàn bò, thế nên không ai đi ra khỏi nhà. Không ai ngoại trừ tôi.

Cả ngày tôi đã nghĩ về việc này, rồi quyết định rằng buổi tối là thời gian thích hợp nhất. Tôi có thể đợi đến hừng đông, nhưng không muốn chần chừ thêm nữa. Nước sông chảy cuồn cuộn và dâng cao – đã có mưa ở phía bắc. Nhưng tảng đá nơi Doc Wade giã biệt cuộc đời vẫn khô – chỉ có cơn lũ mùa xuân mới làm ngập.

Nhưng dù cậy, có một dấu chân trên đấy. Một dấu sẫm màu và ướt. Ngay cả trong bóng tối nhá nhem tôi vẫn trông thấy được. Có lẽ cuối cùng thì Knox đã sắp xếp người canh gác – nhưng người này đã cảm thấy buồn chán và đi chèo thuyền. Thoạt đầu tôi không tin thế, nên tôi đi nhè nhẹ xuống dọc ngôi nhà gỗ để khuất dạng mà tránh khung cửa trước. Khung cảnh hoàn toàn im ắng. Có lẽ tôi chỉ tưởng tượng – tôi không còn trông thấy hòn đá. Tôi đã mang theo một con dao trong túi, mà bây giờ tôi cầm trên tay, nắm chặt hơn mức cần thiết. Tôi thực sự không nghĩ hung thủ sẽ quay trở lại – để làm gì? – nhưng tôi vẫn len lén đi tới, một tay vịn trên tường ngôi nhà, cho đến lúc tôi có thể nghe được âm thanh từ bên trong vọng ra qua khung cửa sổ. Tôi đứng đấy hồi lâu đến mức hai chân tê dại hẳn đi, và tôi không nghe tiếng động nào dù là tiếng muỗi kêu. Tôi bước đến cánh cửa lúc ấy vẫn còn đóng kín nhờ được cột dây kẽm, lấy ra cây kìm và cậy cái chốt. Bên trong tối lờ mờ nhưng tôi vẫn khép cánh cửa lại để phòng xa.

Ngôi nhà gỗ vẫn y nguyên theo những gì tôi còn nhớ, ngoại trừ là chiếc giường bây giờ trống trơn. Vẫn còn có mùi khó chịu bốc lên từ tấm thảm và các tấm chăn đang được cuộn sát bức tường. Tôi thắc mắc ai sẽ giặt các tấm chăn này – hoặc chỉ việc mang đi đốt? Bà mẹ già của anh hẳn không muốn nhận các món này.

Tôi đi lên tầng trên. Có vẻ như Jammet ít khi lên đây – có những hộp và thùng chất lên nhau dựa chân tường, mọi thứ đều phủ bụi, cho thấy dấu chân những người đi lên ngày hôm qua, chân của họ chà xát những khoảnh nhỏ khi họ dừng lại và xem xét cái gì đấy. Tôi đặt cái đèn xuống và bắt đầu lục lọi trong chiếc hộp gần nhất chứa những bộ quần áo tốt nhất của anh – một áo choàng đen kiểu cổ và quần dài, mà tôi có thể nói quá nhỏ đối với anh. Liệu quần áo này là của anh khi còn nhỏ, hoặc của cha anh? Tôi lục lọi qua các thùng khác: có thêm quần áo, vài giấy tờ từ Công ty Vịnh Hudson, chủ yếu liên quan đến chế độ nghỉ hưu sau “một tai nạn xảy ra trong khi thi hành nhiệm vụ”.

Vài món hé lộ cuộc đời của Jammet trước khi anh đến Sông Dove. Tôi cố không nghĩ nhiều đến vài món: ví dụ một cánh hoa bằng lụa ép, đã phai màu theo thời gian – biểu tượng cho tình yêu của một phụ nữ, hoặc biểu tượng anh định trao nhưng đã không trao? Tôi thắc mắc về người phụ nữ vô hình trong cuộc đời của anh. Và đây là một vật hiếm hoi – một tấm ảnh cho thấy Jammet lúc còn là trai trẻ, miệng nở nụ cười khiến người ta dễ cười theo. Cùng hiện diện trong tấm ảnh là vài người đàn ông mà tôi đoán là nhân viên tải hàng, tất cả đều mang khăn quàng cổ, mặc áo choàng có mũ trùm đầu, mắt hấp háy trong tia nắng, đứng xúm xít quanh một núi những thùng và ca-nô, nhưng chỉ có anh là giữ nụ cười được lâu đến thế. Vào dịp nào đáng giá đến mức cần chụp ảnh? Có lẽ họ vừa phá một kỷ lục cho một chuyến tải hàng gian khổ. Người đi buôn lấy làm hãnh diện đối với mấy việc như thế. (Còn tiếp)

Tác giả: Steff Penney, Người dịch: Diệp Minh Tâm

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.