Văn hóa Việt Nam thấm đẫm tinh thần thượng võ

02/02/2010 08:20 GMT+7

Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn võ phái Nam Huỳnh Đạo vốn là hậu duệ đời thứ 7 của võ tướng Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức). Dù mới bước qua độ tuổi tứ tuần, ông đã có gần ba mươi năm nghiên cứu võ học. Là người kế thừa và xiển dương dòng võ Huỳnh Gia nổi tiếng, Huỳnh Tuấn Kiệt có những nhận thức và kiến giải sâu sắc về tinh thần nhân văn-thượng võ của văn hóa dân tộc...

Môn sinh Nam Huỳnh Đạo

Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn võ phái Nam Huỳnh Đạo vốn là hậu duệ đời thứ 7 của võ tướng Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức). Dù mới bước qua độ tuổi tứ tuần, ông đã có gần ba mươi năm nghiên cứu võ học. Là người kế thừa và xiển dương dòng võ Huỳnh Gia nổi tiếng, Huỳnh Tuấn Kiệt có những nhận thức và kiến giải sâu sắc về tinh thần nhân văn-thượng võ của văn hóa dân tộc...

Có không ít nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng Việt Nam có truyền thống “trọng văn khinh võ”. Ví dụ như trong dân gian có câu: “Quan văn cửu phẩm đã sang/Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu” phản ánh một phần nào thực trạng đó. Ông có đồng ý với quan niệm này không?

Suốt chiều dài hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt đã trải qua bao cuộc chiến khi thì chống ngoại xâm giữ gìn bờ cõi, khi thì giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của ngoại bang. Non sông qua bao thăng trầm còn lưu dấu biết bao võ công hiển hách, sử sách còn đó những chiến thắng oai hùng. Đấu tranh là phương thức tự vệ duy nhất của một dân tộc “đất không rộng, người không đông” khi phải đối phó với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình cả chục lần. Nếu dân tộc ta không có một tinh thần thượng võ, và các triều đại không coi trọng nền võ bị, thì chúng ta đâu có một dải giang sơn gấm vóc như ngày hôm nay.

Vậy đâu là đặc trưng của nền võ học Việt Nam? Một môn võ thuần Việt phải có bản sắc như thế nào?

 

Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn võ phái Nam Huỳnh Đạo

Muốn tìm về nguồn cội võ học dân tộc, phải xuất phát từ nền văn hóa nông nghiệp của nền văn minh lúa nước cổ xưa. Đó là nền văn hóa trọng tĩnh, trong tương quan ngũ hành nó thuộc mộc tính. Cư dân trồng lúa nước thường tính tình hiền hòa, phong tục thuần phác. Do thường xuyên quan sát trời đất, khí hậu để gieo trồng và bảo vệ mùa màng, người Việt cổ đã biết suy luận ra phạm trù âm dương, ngũ hành nhằm giải thích thế giới. Bạn có thể tham khảo “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Sự cuồng nộ của thiên nhiên, sự đe dọa của thú dữ và sự xung đột giữa các bộ tộc làm con người thời cổ xưa phải tìm ra các phương pháp chiến đấu để sinh tồn. Nền văn minh rực rỡ Đông Sơn đã để lại những công cụ, vũ khí như trống đồng, rìu đồng, mũi tên đồng… đã minh chứng cho điều đó.

Xin dẫn thêm một cứ liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi, việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông ngự cung Trùng Quang, vua Anh Tông đến chầu. Thượng hoàng nói: Nhà ta vốn là người hạ bạc, đời đời chuộng dũng cảm, nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên nguồn gốc. Trước đó một hoàng tộc triều Lý đã vượt biển sang Cao Ly, sát cánh cùng triều đình nước này chống quân Mông Cổ, lập nhiều chiến công hiển hách. Người đó chính là Hoa sơn tướng quân Lý Long Tường mà hậu duệ còn đến ngày hôm nay.

Như vậy trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần… vua tôi đều coi trọng việc võ. Võ công và văn trị luôn là hai mặt để trị quốc, giữ yên bờ cõi và an dân. Bản sắc của chiến trận và võ học Đại Việt đã được đúc kết thành nguyên lý: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều…

Nhưng nền võ học chúng ta không có những trường phái võ thuật lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang… của Trung Quốc hoặc tầng lớp võ sĩ đạo chuyên nghiệp như Nhật Bản.

Văn hóa phản ánh sinh hoạt, tinh thần và tư tưởng của một dân tộc. Nó chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, địa dư và tâm thức. Truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt Nam, trong đó văn hóa làng xã vừa gìn giữ, bảo lưu vừa câu thúc, kìm hãm sự phát triển. Võ học Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật đó. Tuy không có các trường phái võ thuật lớn nhưng ta vẫn có các dòng võ lưu truyền trong các dòng tộc. Việt Nam còn có những vùng đất võ rất đặc trưng như Tây Sơn-Bình Định, Tân Khánh- Bà Trà, võ Kinh ở cố đô Huế, võ Héc ở vùng Thanh Nghệ, vùng đất võ Hà Tây. Hội vật làng Sình, vật Liễu Đôi, đất vật Trà Lũ… là những bằng chứng sống động đời sống thượng võ vẫn còn đến ngày hôm nay.

Trong quá khứ khi có chiến chinh, mọi người dân đều khoác áo lính (toàn dân vi binh). Khi dẹp tan giặc thù, người lính về lũy tre làng trở lại làm anh nông dân. Một xã hội thuần nông nghiệp như vậy làm sao sản sinh ra những tầng lớp võ sĩ, hiệp sĩ chuyên nghiệp như những nước khác. Đó cũng là đặc thù của văn hóa Việt Nam.

Tinh thần thượng võ dân tộc ngày nay cần được hiểu và vận dụng như thế nào?

Ngày xưa trong các trận kháng chiến chống Nguyên, Minh, Thanh... sau khi toàn thắng ông cha ta thường vỗ về, trao trả hàng binh. Làm như thế không phải vì ta sợ kẻ địch, mà vì dân tộc ta vốn có đức hiếu sinh, luôn biết “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Tinh thần thượng võ dân tộc ấy làm cho kẻ thù phải tâm phục, khẩu phục.

Ngày nay tinh thần thượng võ đặt trong bối cảnh hiện đại là lấy võ thuật làm phương tiện, rèn luyện thân tâm làm cứu cánh. Sự cân bằng và hợp nhất thân tâm của các cá thể trong xã hội sẽ tạo nên sinh lực to lớn cho văn hóa dân tộc. Việt Nam nên nhanh chóng đưa giáo dục võ thuật dân tộc vào học đường và các tổ chức xã hội. Bằng con đường võ thuật, chúng ta có thể thúc đẩy việc cải thiện thể chất nòi giống, nâng cao tinh thần dân tộc… 

Xin cảm ơn võ sư.

Phước Thành (thực hiện)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.