Hiện trường khai quật khảo cổ tại khu vực hồ Nước Trong, tỉnh Quảng Ngãi |
Thu nhiều hiện vật giá trị
Bộ sưu tập công cụ và đồ trang sức bằng đá thu thập được từ Trà Phong gồm các chất liệu như: đá lửa, đá granite, đá cuội, đá phiến sét. Loại hình công cụ đặc trưng là rìu mài lưỡi có vai, mặt cắt dạng thấu kính lồi một bên và hai bên. Rìu mài lưỡi có chất liệu đá cát kết màu xám, vai có nấc nhỏ, mặt thân cong lồi, rìa lưỡi mài sắc. Đồ trang sức với kiểu khuyên tai bằng đá cuội xám và đá phiến sét, khoan lỗ tròn ở một phần đỉnh của đá. Đồ gốm đặc trưng là loại gốm đỏ, pha cát thô, xương gốm mỏng.
Những gì tìm được ở Trà Phong cho thấy di chỉ này thuộc hậu kỳ đá mới, niên đại khoảng 4.000 năm và có vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu giai đoạn tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ. Nhiều căn cứ cho thấy di chỉ Trà Phong có mối quan hệ giao lưu với văn hóa hậu kỳ đá mới Biển Hồ (Tây Nguyên) thông qua sự tương đồng của bộ sưu tập công cụ, là cội nguồn để hình thành các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh ở đồng bằng.
Tháng 11-2002, những người rà sắt phế liệu đã phát hiện một trống đồng Héger loại I chôn trên vùng gò thấp của vùng núi miền Tây Quảng Ngãi. Điều này chứng tỏ trống đồng của văn hóa Đông Sơn đã có sự giao lưu với văn hóa Sa Huỳnh.
Trước khi khai quật khảo cổ, chúng tôi cũng đã đào thăm dò tại khu vực xây dựng hồ chứa nước Nước Trong với tổng số 220 hố, tổng diện tích thăm dò là 1.380 m2 trên địa bàn hai huyện Tây Trà và Sơn Hà. Di vật tìm được gồm các công cụ đá, đồ đựng bằng gốm và trên 1.000 mảnh gốm thô của cư dân hậu kỳ đá mới trên 4.000 năm tuổi. Đồng thời cũng phát hiện di tích của các cư dân muộn hơn, gồm: Lò nung có niên đại thế kỷ thứ VI sau Công nguyên; di tích mộ Chămpa thế kỷ XII với các hiện vật dao, giáo sắt, bát đồng, bát gốm tráng men, hạt đá trang sức Indo – Pacific...
Cư dân tiền sử an cư dọc sông Tang
Cuộc khai quật khảo cổ lần này tiến hành từ ngày 15-12-2010 đến 15-2-2011, trong khu vực xây dựng công trình hồ chứa nước Nước Trong thuộc huyện Tây Trà. Các địa điểm khai quật phân bố trên dải thềm đất nằm hai bên bờ sông Tang.
Kết quả đã tìm thấy các công cụ ghè đẽo của cư dân đá cũ cách đây khoảng 1 vạn năm; công cụ cuốc vai, rìu mài lưỡi, bôn đá và gốm của cư dân hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 4.000 năm. Đặc biệt, trong hố khai quật còn tìm thấy đồ gốm mang phong cách Bình Châu tiền Sa Huỳnh và các cụm mộ nồi có đồ tùy táng dao sắt, khuyên tai hai đầu thú điển hình của văn hóa Sa Huỳnh. Lớp gốm trong tầng văn hóa di chỉ cư trú tương đối dày, phát triển liên tục. Điều đó phản ánh cư dân thời tiền sử sinh sống trên bậc thềm hai bên bờ sông Tang rất ổn định và lâu dài.
Các nhà khảo cổ đã dựng lại mặt bằng gốc trước khi con người của thời hậu kỳ đá mới đến cư trú. Đó là nền đá cuội bị nước của trận đại hồng thủy rất lớn cuốn trôi mang đến hai bên bờ sông Tang. Trong truyền thuyết của cộng đồng người Kor bản địa cũng nhắc đến trận đại hồng thủy này. Sau trận đại hồng thủy, cư dân hậu kỳ đá mới đã đến sinh sống trên nền đá cuội này và đã sử dụng lại các công cụ ghè đẽo của cư dân đá cũ bên cạnh các công cụ bằng đá đặc trưng của giai đoạn này như cuốc vai, rìu vai mài lưỡi, bôn hình răng trâu, bàn mài đá. Chất liệu công cụ thường là đá lửa, đá quart, sa thạch.
Một hiện vật thu được qua khai quật. Ảnh: C.T.V |
Các cứ liệu thu thập được cho thấy nguyên liệu để làm công cụ đá trong vùng thung lũng sông Tang rất nghèo. Đồ gốm của cư dân hậu kỳ đá mới bao gồm các loại hình nồi, vò, xương gốm mỏng, áo gốm đỏ trang trí chủ yếu là văn thừng thô, thứ đến là văn chải. Công cụ đá của cư dân hậu kỳ đá mới trong vùng thung lũng sông Tang rất giống với công cụ đá của cư dân hậu kỳ đá mới Tây Nguyên.
Như vậy, đã có dòng chảy văn hóa ở giai đoạn hậu kỳ đá mới Tây Nguyên đi qua dải Trường Sơn tiến dần về đồng bằng duyên hải miền Trung để hình thành nên thời đại kim khí phát triển rực rỡ tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh.
Phong cách mới trong mộ táng
Tiếp sau lớp văn hóa của cư dân hậu kỳ đá mới là lớp gốm cư trú của cư dân tiền Sa Huỳnh. Đồ gốm của giai đoạn này mang đậm phong cách Bình Châu với kiểu vai gãy, miệng loe ưỡn vuốt cong hình lòng máng của các loại đồ đựng như nồi, vò, bát bồng, bình hình con tiện; xương gốm dày trộn lẫn đất sét, cát, còn có cả đá quartzit, đá laterit giã nhỏ trộn vào; hoa văn trang trí đa dạng, gồm các loại văn thừng, văn chải, văn vạch, văn in chấm; nghệ thuật trang trí phát triển với phong cách tô đỏ, tô đen của loại nhựa cây với hoa văn trang trí là các đồ án hình chữ S, hình chấm tròn, vạch que tạo thành băng dải; điểm trang trí thường là mép miệng, vai, chân đế. Giai đoạn Sa Huỳnh tìm thấy các khu mộ nồi chôn thành cụm, một số có nắp đậy là loại bát bồng. Các mộ nồi thường có đá đánh dấu biên mộ, đặc biệt có một mộ nồi sử dụng cuội sỏi để lát dưới đáy.
Đây là phong cách mới ít khi gặp trong các mộ táng văn hóa Sa Huỳnh. Các mộ nồi chôn liền kề sát cạnh nhau, cao thấp khác nhau tạo thành khu mộ phản ánh quan niệm thân tộc của cư dân Sa Huỳnh. Lớp gốm cư trú trong tầng văn hóa của các di chỉ khai quật không dày lắm nhưng kéo dài từ thời hậu kỳ đá mới qua thời đại kim khí. Điều đó phản ánh diễn trình văn hóa của cư dân tiền sử ở đây phát triển rất chậm, không tụ cư đông đúc như đồng bằng duyên hải.
Xác nhận vùng văn hóa thung lũng sông Tang Kết quả khai quật khảo cổ học này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác nhận vùng văn hóa văn minh của con người thời tiền sử ở thung lũng sông Tang, là thượng nguồn của sông Trà Khúc – một trong những dòng sông chuyển tải văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi. |
Theo Người Lao Động
Bình luận (0)