Lên cấp 3, có năm tôi được học văn thầy Ngô Xuân Huy – em trai nhà thơ. Nhờ thầy Huy, tôi biết thêm bài Mũi Cà Mau của Xuân Diệu. Thời sinh viên mơ mộng, có lúc tôi tôi đã đem bài Biển của Xuân Diệu để phổ nhạc và phổ biến cho bạn bè. Năm 1981, ở khóa 1 trường Viết văn Nguyễn Du, chúng tôi được nghe Xuân Diệu giảng một “cua” về thơ. Khi ấy tôi mới thực sự tiếp xúc trực tiếp với Xuân Diệu. Giữa hai giờ giảng, anh vui vẻ nhận lời mời của tôi đi uống chè. Trong quán nước, tôi hỏi đùa anh có biết cái lốp xe đạp ở chợ đen là bao nhiêu không, anh đập mạnh tay vào vai tôi: “Xuân Diệu làm gì lạc hậu đến nỗi thế. Nhà thơ là phải biết hết !”.
Một ngày cuối hè, kỳ sắp công bố Giải thưởng thơ của báo Văn Nghệ 1981 – 1982, tôi được nghe anh Hoàng Minh Châu nói “Ông Diệu rất khen bài Những giọt mưa đồng hành của Kha. Sau đó, tôi cũng được nghe anh Tế Hanh thông báo như thế. Nghe mà gai người ! Nhiều người đồn đại: “Ông Xuân Diệu nghiệt với lớp thơ trẻ lắm”, vì vậy tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Chỉ sau khi giải thưởng được công bố, đọc bài “Công việc làm thơ” của anh viết về giải thưởng, tôi mới thực tin. Tôi thực tin hơn nữa là hôm trao giải tại báo, tôi cùng Ngô Thảo và anh là những người cuối cùng ngồi uống bia hơi. Anh có vẻ sung sướng thật sự sau khi chủ trì công việc chọn lựa khá mệt nhọc.
Xuân 1983, gặp anh ở cuộc chiêu đãi của tạp chí Sông Hương, tôi thông báo cho anh là tôi đã hát được bài Nguyệt cầm của anh do Cung Tiến phổ nhạc. Anh Diệu hết sức tâm đắc với bài thơ này. Cuối cuộc, tôi mời anh về nhà cùng một số bạn hữu để nghe hát. Và cuộc vui diễn ra khá khuya. Anh đọc nhiều thơ tình cho bọn tôi nghe, và cũng lắng nghe thơ của chúng tôi. Đêm đó rượu cũng ngà say, và Ngô Thảo đưa anh về nhà…
Cuối năm 1983, tôi chọn bài Nhập thu trong tập Thanh ca của anh để phổ nhạc. Anh mời tôi và Nguyễn Trọng Tạo đến hát tại nhà. Khi tôi hát, anh nghe rất chăm chú. Sau đó, anh nói: “Cậu chọn bài này để làm nhạc là hay đấy. Mình cảm ơn nhé. Anh em cứ nghĩ đến nhau thế này là quý”, rồi anh trân trọng nhận bản nhạc tôi chép tặng anh. “Các cậu có lợi thế biết âm nhạc. Nên tìm cách sử dụng nó cho thơ. Nhưng phải chú ý đừng để nó làm thơ thành dễ dãi”.
Xuân 1985, gặp anh tại cuộc chiêu đãi của Nhà xuất bản Đà Nẵng, anh nói: “Này ! Những giọt mưa đồng hành ! Lâu quá mới gặp cậu đấy. Có gì mới không ?”. Lúc ấy tôi vừa hoàn thành xong chùm thơ về Nghĩa Bình sau đợt đi thực tế mùa thu 1984. Tôi đọc anh nghe hai câu thơ trong bài Qui Nhơn:
Người Qui Nhơn hình như yêu thi sĩ
Ai ở đây một thời làm mới lại thi ca
Anh cười: “Cậu cảm đúng về Qui Nhơn đấy !”. Nhân lúc anh vui vẻ, tôi đọc luôn bài thơ làm tặng Hàn Mặc Tử, anh lắng nghe rồi trầm ngâm: “Hàn Mặc Tử là nhà thơ thực sự đáng kính trọng”.
Sau đó, tôi và Nguyễn Trọng Tạo cùng anh Văn Cao trở lại Qui Nhơn. Lần này, chúng tôi được trở lại Gò Bồi, nơi nổi tiếng về nước mắm và là quê mẹ của Xuân Diệu.
Nhìn con đường nhỏ đi men theo bờ sông, tôi chợt nhớ trong “Những bước đường tư tưởng của tôi” của anh có đoạn: “Một buổi chiều tôi trốn về với má, má đang vội đi chợ, má cho tôi bốn đồng tiền ăn bánh. Tôi ra khỏi nhà má lê từng bước một, đi dọc đường theo con sông Gò Bồi mà trở về nhà thầy. Buồn quá. Tôi thấy buồn man mác mà không hiểu được. Tôi đứng lại bên bờ sông, nhìn con sông, nhìn các rặng tre, nhìn dòng nước, nhìn mặt sông Gò Bồi nắng xiên lá khoai vàng úa…”. Chúng tôi len qua chợ và vào thưởng thức bánh xèo ở một quán nhỏ. Anh Văn Cao vừa trầm ngâm nhấp rượu Gò Bồi, vừa im lặng nhìn ra dòng sông. Anh nói: “Cũng hiểu thêm vì sao đất này có Xuân Diệu”. Về lại Qui Nhơn, anh đã viết trong bài thơ thứ hai:
… Không phải Qui Nhơn đẹp
Những nhà thơ tôi đọc
Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Xuân Diệu…
(Ngày lễ tang, đến viếng trước linh cửu rồi về, anh Văn Cao nói trong thoáng nao lòng: “Trong bài thơ Qui Nhơn, mình đã xếp hàng Xuân Diệu sau Yến Lan rồi. Không ngờ ông này lại chen ngang về Văn Điển trước. Xuân Diệu là người giới thiệu bài thơ “Xe xác qua phường Dạ Lạc” của mình lên báo đấy!”)
Tháng 7/1985, tôi lại được gặp anh trong không khí tươi trẻ của Đại hội Văn nghệ Thái Bình. Ở vườn hoa thị xã Thái Bình có con vượn độc sáng nào cũng hét não nuột. Tôi nói với anh: “Anh Diệu có thấy nó như tiếng tổ tiên còn vọng trong mỗi chúng ta không?”. Anh cười: “Cậu có được một cái tứ rồi”. Và sau đó tôi làm xong bài thơ Thị xã châu thổ Bắc nhờ tựa vào cái tứ đó.
Lần cuối cùng tôi gặp anh – không phải là gặp anh mà là thấy anh – trong một buổi sáng mưa chuyển rét của mùa đông 1985. Trên xe đạp, hòa với dòng người đi làm, tôi thấy anh đang đi bộ chân trần trên đường Điện Biên. Tôi thầm nghĩ ông này còn khoẻ thật. Thế mà không ngờ đêm 18.12.1985, đêm thơ êm ả của những người viết văn trẻ về dự đại hội, tin anh qua đời sau cơn đau đột ngột ập đến. Sáng 19/12/1985 toàn thể những người viết văn trẻ đã mặc niệm anh và cắn môi nén khóc nghe bài Sự uyên bác trong thơ của anh do anh Lữ Huy Nguyên đọc.
Xuân Diệu ra đi với thân phận của một nghệ sĩ thực sự. Qua ba ngày nằm trong phòng lạnh, sáng 21/12/1985, chúng tôi mới được gặp anh ở phòng tang lễ của bệnh viện Việt – Xô. Anh gầy và xanh, Chị Huy Hiền – Chánh văn phòng Hội Nhà văn – con gái nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, người được anh giới thiệu vào Đảng, đã phải đánh phấn cho anh. Anh nằm im trong bộ veston màu xanh cũ, đôi tất màu cà phê sữa đã mạng nhiều chỗ. Những nhà thơ trẻ thường thường được coi là thân thiết của anh như Bế Kiến Quốc, Chữ Văn Long đều có mặt. Chỉ vắng có Vũ Quần Phương.
Một chiếc com măng ca đón anh từ bệnh viện về nhà 51 Trần Hưng Đạo – Nơi Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật làm lễ tang cho anh. Chiếc com măng ca ngắn quá, quan tài thừa ra ngoài quá nhiều. Nhà thơ vĩ đại của Việt Nam ở thế kỷ 20 này đã chia tay với một đoạn đường Thủ Đô trong tình trạng “cực kỳ” như vậy đấy. Ở nơi làm lễ tang, khi chúng tôi chậm chậm đưa anh lên từng bậc thang hội trường, người đến viếng đã khá đông. Chúng tôi tạm lùi về nhà một người bạn tổ chức một cái lễ nho nhỏ gọi là có một chút nhớ đến tục ba ngày của anh.
Qua giờ Ngọ, tang lễ được cử hành, giữa 104 vòng hoa có một bó hoa lớn màu trắng của chị Bạch Diệp (người đã có ít ngày chung sống cùng anh) với băng tím, chữ trắng: “Vĩnh biệt anh – Bạch Diệp”. Chúng tôi đã mang anh trên vai đến xe tang. Dù sao, “sống khôn chết thiêng”, anh đã chết như chọn trước. Thế hệ nhà văn trẻ cả nước tựu quần về thủ đô Hà Nội đã xuống đường chia tay anh. Anh đã được các nhà thơ trẻ mang trên vai trước lúc hạ huyệt ở Văn Điển. Victor Hugo đã ra đi gần như thế, với “mười hai nhà thơ Pháp trẻ hợp thành một đội cận vệ danh dự…”. Cả Hà Nội tiễn đưa anh chật đường. Đoàn người theo xe tang tưởng như vô tận.
Ngày Tết ông Công, ông Táo 23 tháng chạp năm Ất Sửu, tình cờ trong một quán rượu, tôi nghe một thanh niên nói khá to: “Chiều nay đi thả cá chép ở Hồ Tây. Thả xong mới nằm ngửa ra bãi cỏ nhìn trời”. Chẳng hiểu sao tự nhiên mình lẩm nhẩm “Hôm nay trời nhẹ lên cao – Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Đọc xong ngẫm nghĩ hồi lâu tôi mới thốt lên: “Trời ơi ông Xuân Diệu ơi ! Ông đã thực sự ở trong đời sống của nhân dân, đã trở thành cổ điển như Nguyễn Du, như Tản Đà… rồi đấy !”
Nguyễn Thụy Kha
(Báo Thanh Niên 15/12/1986)
Bình luận (0)