- Mướp hương còn gọi là ty qua, mướp ta. Vị ngọt, tính mát, giải độc, thanh nhiệt. Liều dùng 5-10gr trái già, không bỏ vỏ (đốt cháy, tán nhuyễn) uống 2 lần/ngày, liền 7 ngày sẽ dứt bệnh.
- Cây ngái (Fieus hisppida L.f) họ dâu tằm. Vị ngọt, tính mát. Dùng 30gr rễ nấu với 250ml nước, còn 100ml chia 2 lần uống trong ngày, liền 10 ngày.
- Dây máu (Gnetum montamum Mark) họ gắm, còn có tên khác là dây gắm, gắm núi. Vị đắng, tính ôn. Dùng 30gr sắc trong 0,5 lít nước, còn 150ml uống 3 lần/ngày, liền 10 ngày (có thể dùng chữa sốt rét, sưng gối, viêm họng, xoang mũi).
- Rau sam (Fortuloca Oleraceae L.), có tên khác là mã sĩ liềm. Vị chua, tính hàn, không độc. Sát trùng khuẩn và tả lỵ, giun đũa, giun kim. Liều 50gr nấu với 0,5 lít nước, bỏ xác, lấy nước rửa chỗ trĩ loét, lòi dom. Hoặc nấu 50gr lá sam, búp ổi non, cả hoa, 10gr vỏ quýt vàng, 15gr hoàng kỳ, 10gr sài hồ, 10gr đương quy và 5gr cam thảo trong 1,5 lít nước, còn 0,5 lít, chia làm 5 phần uống cả ngày. Giúp bổ tỳ, ích khí, giảm thân nhiệt; tránh được tắc đường ruột và đau nhức hậu môn lâu năm.
Lương y Dương Tấn Hưng
Bình luận (0)