img
img
img
img
img

Từ kỷ nguyên độc lập
đến khát vọng hùng cường

Tác giả: Phan Hậu - Mai Thu - Nguyễn Thanh
Thiết kế, trình bày: Phòng Công Nghệ

img
img
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Bấm vào biểu tượng để nghe
img
img

Bước ra từ một Việt Nam chỉ 5 - 20% dân số biết chữ và gần 3/4 dân số sống dưới mức nghèo đói trong thập niên 1980, chúng ta đã viết nên câu chuyện Đổi Mới – chặng đường kéo tỷ lệ nghèo từ 50% năm 1990 xuống chỉ còn 7% năm 2005.

img

“Việt Nam đã đạt nhiều kỳ tích trong chiến tranh. Nhìn lại quá trình xây dựng, phát triển trong hòa bình, có thể nói rằng những thành tựu chúng ta đạt được cũng là kỳ tích”, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM), xúc động chia sẻ.

img

"Mất sổ gạo ngày đó buồn như mất cả cuộc đời."

TS. Nguyễn Đình Cung

Thành tựu rất ấn tượng của Việt Nam, được thừa nhận rộng rãi là xóa đói giảm nghèo. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 đã giảm xuống còn 37,4%. Hiện tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều chỉ còn khoảng 1,5 - 2%. “Những thành tích như vậy không nhiều quốc gia đạt được”, ông Cung nói.

Hành trình xoá nghèo
từ mù chữ, bao cấp đến đổi mới

img

Theo bà Nguyễn Thị Hương, Cục trưởng Cục Thống kê (Bộ Tài chính), giai đoạn 1945 - 1954, thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới là khó khăn nhất.

“Kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này. Trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Nông nghiệp đã hoàn thành sứ mệnh là nền tảng của kinh tế kháng chiến với những đóng góp to lớn giải quyết nạn đói các năm 1945, 1946”, bà Hương nói.

Suốt giai đoạn 1955 - 1985, điểm nhấn đáng chú ý là việc Việt Nam triển khai 3 kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm gồm: lần thứ nhất (1961-1965), lần thứ 2 (1976-1980) và lần thứ 3 (1981-1985). Việt Nam đã từng bước khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh; khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.

Dù vậy, việc duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp (1976 - 1985) để lại nhiều hệ lụy. Theo bà Hương, việc quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới, đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung - cầu (thiếu hụt nguồn cung). Lạm phát cao khiến đời sống nhân dân hết sức thiếu thốn.

img

Trực tiếp tham gia công cuộc “xóa đói” thời đó, ông Nguyễn Đức Triều, nguyên Chủ tịch T.Ư Hội Nông dân Việt Nam, nguyên Phó ban Dân vận T.Ư, kể ông từng là cán bộ biệt phái của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam về các hợp tác xã ở Hà Nam Ninh triển khai thí điểm tăng năng suất lúa xuân, mở đường cho thâm canh tăng vụ từ năm 1968.

img

Trước năm 1964, nông dân miền Bắc chỉ quen làm lúa chiêm, từ lúc gieo mạ đến khi gặt là 180 ngày, năng suất lúa rất thấp chỉ từ 100 - 120 kg/sào. Sản lượng làm ra không đủ ăn, đất nước thiếu đói triền miên nên chủ trương làm lúa xuân được lãnh đạo Đảng, Nhà nước rất quan tâm.

“5 năm liền về địa phương công tác, tôi đi khắp các hợp tác xã, cùng làm cùng rút kinh nghiệm với với nông dân, mãi đến năm 1968, khi Hợp tác xã Hồng Thắng (xã Hải Anh) tiên phong bỏ toàn bộ lúa chiêm cấy lúa xuân thành công, tạo tiền đề nhân rộng. Năm 1969, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng về thăm, quyết định cho “lúa chiêm nghỉ hưu” chuyển sang cấy lúa xuân, thâm canh tăng vụ mở đường từng bước tự chủ về lương thực”, ông Triều nói.

img

Dù vậy, mô hình hợp tác xã vận hành theo cơ chế lao động tập trung, nông dân đi làm chỉ “đánh trống ghi tên” quan tâm đến công điểm, không quan tâm đến chất lượng công việc, năng suất lúa không đủ ăn. Đến năm 1980, Việt Nam rơi vào khủng hoảng lương thực trầm trọng.

Bước ngoặt “cởi trói” đầu tiên là Chỉ thị 100, T.Ư Đảng ban hành tháng 1.1981, áp dụng chính sách khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm, người lao động trong hợp tác xã. Hộ nông dân có thể giữ lại phần sản phẩm vượt khoán. Ở địa phương, nông dân làm việc trách nhiệm, hăng hái hơn giúp sản lượng lúa tăng lên, tình trạng thiếu đói dịu bớt nhưng vẫn chưa đủ sức giải phóng, khai phá sức lao động.

img

Không chỉ Chỉ thị 100, trước đó đã có những “người mở đường” cho tư duy đổi mới. Tại Vĩnh Phúc, ông Kim Ngọc, khi còn là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh này đã mạnh dạn khoán ruộng đất cho nông dân từ cuối thập niên 1960. Dù bị coi là “xé rào”, phải chịu kỷ luật, nhưng chính thực tiễn ấy sau này trở thành tiền đề quan trọng cho Khoán 10 năm 1988.

Tại TP.HCM, trong bối cảnh khủng hoảng lương thực, ông Sáu Dân - cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi làm Bí thư Thành ủy TP.HCM đã dám nghĩ, dám làm đột phá cơ chế mua gạo cứu đói cho dân những ngày sau giải phóng. Khi đó, ông mời bà Ba Thi, Giám đốc Công ty Lương thực TP.HCM cùng một số lãnh đạo đến để tìm mọi cách vượt “ngăn sông, cấm chợ” để mua gạo các từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long về cứu đói cho dân. Hình ảnh của ông Sáu Dân trở thành biểu tượng của tinh thần quyết đoán, sáng tạo, vì dân. Đây là những minh chứng cho sự dũng cảm dám nghĩ dám làm, góp phần quan trọng thúc đẩy đến Đổi Mới 1986 và con đường đi vào kinh tế thị trường định hướng XHCN sau này.

img

Nhắc tới trước đổi mới, đặc biệt là giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tem phiếu, ông Cung chia sẻ ấn tượng: “Bây giờ nghĩ lại dù phải xếp hàng mua gạo nhưng người dân vẫn xếp hàng rất ngay ngắn, trật tự. 3 giờ sáng người dân đã thức dậy đi xếp gạch giữ chỗ, đó cũng là kỷ luật, không có chen chúc. Hồi đó, người nào mà mất sổ gạo thì rất buồn, đến mức sau này sự buồn bã của một ai đó đều so sánh như người mất sổ gạo”.

Sau này đánh giá lại thấy rằng, nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp duy trì quá lâu là nguyên nhân khiến kinh tế Việt Nam trì trệ, nhưng phải khẳng định, ở giai đoạn đầu đó là cách làm không thể khác được. “Đáng tiếc chỉ là chúng ta chưa có sự thay đổi kịp thời”, ông Cung nói.

Before After
img img

Ảnh: Tư liệu

img

Đổi mới - bước ngoặt lịch sử, khởi đầu cho một Việt Nam bứt phá

img

Tháng 12.1985, Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành T.Ư Đảng khóa V đã thẳng thắn chỉ rõ “nền kinh nước ta đang đứng trước những khó khăn gay gắt”. Đảng nhận thức rõ yêu cầu sống còn phải đổi mới, khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng, siêu lạm phát, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn do chính sách bao cấp, kế hoạch hóa, “ngăn sông cấm chợ”...

Nhớ lại giai đoạn trước 1986, TS Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp VN (VCCI), cho biết Việt Nam khi đó rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế rất nặng nề, một phần di sản chiến tranh để lại chưa khắc phục được, bị Mỹ bao vây cấm vận; áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung không phù hợp…

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra quyết định lịch sử, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, trọng tâm là đổi mới kinh tế. “Đổi mới năm 1986 đã cơ bản đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng, giải quyết 3 vấn đề cực kỳ lớn của đất nước lúc đó là phát triển kinh tế thị trường, giải phóng sức dân và phá thế cấm vận của Mỹ. Việt Nam từ chỗ trong nhóm nước nghèo nhất thế giới dần tiến tới thoát nghèo, để rồi từ đó tiếp tục phấn đấu vươn lên”, bà Lan nhìn nhận.

img
img

Theo TS Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), đổi mới đầu tiên, quan trọng nhất đó là đổi mới tư duy và quan điểm kinh tế, chuyển đổi mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung thực hiện các lĩnh vực then chốt, thiết thực của đất nước.

Nhà nước lần đầu tiên công nhận nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hàng loạt đổi mới về thể chế, quản lý đã được đặt ra từ đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh; thực hiện khoán 10…

img

“Đáng chú ý, trong bối cảnh nền kinh tế bị cô lập, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước đã đổi mới tư duy, xác định hội nhập quốc tế, thu hút vốn FDI là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi mô hình phát triển”, ông Lâm nói.

Ngoài những thay đổi về kinh tế xã hội, giai đoạn Đổi Mới còn chứng kiến các công trình hạ tầng mang dấu ấn đột phá, kết tinh từ sự hỗ trợ quốc tế. Đơn cử, cầu Mỹ Thuận (1997 - 2000) là cây cầu dây văng đầu tiên bắc qua sông Tiền, nối Tiền Giang với Vĩnh Long. Đây là dự án viện trợ lớn nhất từng được Chính phủ Úc thực hiện tại Việt Nam (trị giá 91 triệu AUD), hoàn thành năm 2000. Cây cầu không chỉ phá vỡ tình trạng phụ thuộc vào phà, mà còn thúc đẩy lưu thông, kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh mẽ. Cầu Thanh Trì (2002–2007) được xây dựng bởi vốn ODA Nhật thông qua JICA, với tổng chiều dài trên 3 km, là một trong những cây cầu bê tông dự ứng lực lớn nhất Việt Nam thời đầu thế kỷ 21. Cầu nằm trên đường Vành đai 3 Hà Nội, góp phần giảm ùn tắc và tăng khả năng kết nối vùng, một minh chứng cho sự thừa nhận và hợp tác quốc tế đối với quá trình đổi mới của Việt Nam.

img
img

Nhờ đó, đất nước đã vượt qua khủng hoảng, kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng GDP trung bình năm giai đoạn 1986 - 1990 đạt 4,4%; giai đoạn 1991 - 2000 đạt 7%; chấm dứt tình trạng siêu lạm phát kéo dài nhiều năm, lạm phát từ mức 3 con số 453,5% năm 1986 giảm xuống 95,8% năm 1989 và 37,7% năm 1992; đảm bảo an ninh lương thực.

Đặc biệt, Việt Nam trở thành điểm đến thu hút FDI hàng đầu trong khu vực. Thời kỳ 1986 - 2000, nền kinh tế thu hút được trên 40 tỉ USD vốn FDI đăng ký, hình thành một số khu công nghiệp, khu chế xuất; khu vực kinh tế ngoài nhà nước dần trỗi dậy với làn sóng thành lập doanh nghiệp mạnh mẽ. Cùng đó, xuất khẩu tăng trưởng nhanh, ổn định. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,45 tỉ USD, gấp 18,3 lần năm 1986; tạo nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, giúp ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao vị thế thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam.

“Đổi mới đã giúp chúng ta phá được thế bị cấm vận của Mỹ. Các nước quay trở lại bắt tay trở lại với Việt Nam. Các tổ chức quốc tế nối lại quan hệ với Việt Nam, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế bắt đầu cung cấp viện trợ trở lại. Có những nguồn viện trợ đó, chúng ta mới có khả năng để phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh, nhất là các cơ sở hạ tầng bị phá hủy hết sức nặng nề”, bà Phạm Chi Lan nhắc lại.

“Có viện trợ quốc tế trở lại, Việt Nam mới hồi phục hạ tầng sau chiến tranh.”

Phạm Chi Lan

Còn theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung, quyết sách Khoán 10 ra đời năm 1988 thừa nhận hộ gia đình là một đơn vị sản xuất và trao lại quyền tự chủ cho đơn vị sản xuất đã tạo ra bước ngoặt quan trọng với người nông dân. Họ sẽ được quyết định sản xuất cái gì, bán sản phẩm sản xuất ra thị trường với giá thị trường chứ không phải với giá bao cấp.

Việt Nam nhiều năm thiếu đói toàn dân, lương thực phải nhờ viện trợ. Bây giờ có lẽ không ai hình dung nổi hạt bo bo là gì, cứng như thế nào nhưng lúc đó vẫn phải ăn, không ăn không sống được. Nhưng Khoán 10 đã tạo sự bùng nổ về huy động nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp.

Cuối năm 1988, Chính phủ còn lo phải vận chuyển bao nhiêu lúa gạo từ miền Nam ra miền Bắc để đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu cho người dân, mà vẫn thực sự khó khăn, nhiều lúc người dân còn đứt bữa. Tuy nhiên đến năm 1989, gạo đã đầy trên thị trường, thậm chí Việt Nam bắt đầu có xuất khẩu gạo. Đây là sự đổi thay ngoạn mục, diễn ra từng ngày”, ông Cung nhấn mạnh.

img
img
img

Nếu 1986 tạo bước đà đổi mới, thì từ những năm 2000 khi Việt Nam thoát nghèo, nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển nhanh và sôi động, với sự hình thành của các doanh nghiệp lớn cả nhà nước và tư nhân. Sự bùng nổ kim ngạch thương mại và các kỷ lục xuất khẩu liên tục được thiết lập.

img

Bà Nguyễn Thị Trà My, đồng sáng lập và Tổng giám đốc Tập đoàn PAN, cho biết trước đây nông nghiệp vẫn bị xem là ngành truyền thống, thiếu sức hút và chậm đổi mới. PAN đã phải thuyết phục các nhà đầu tư về tầm nhìn chiến lược xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp - thực phẩm khép kín, từ giống đến bàn ăn, chiến lược này không những khả thi mà còn có thể vươn ra toàn cầu.

“Việt Nam có hơn 60% dân số sống ở nông thôn, gần 30% lực lượng lao động vẫn đang làm việc trong nông nghiệp. Đối với hàng triệu gia đình Việt, nông nghiệp không chỉ là công việc, mà còn là cuộc sống, là bản sắc và là sợi dây kết nối giữa các thế hệ với mảnh đất cha ông. Nông nghiệp không đơn thuần là công việc kinh doanh mà đó là sứ mệnh, cơ hội đem lại cuộc sống tốt hơn cho hàng triệu người Việt và xa hơn nữa là góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới”, bà My chia sẻ.

img

Theo Bộ Công thương, Việt Nam đã ký kết và tham gia 20 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó 17 FTA đã có hiệu lực và đang được thực thi, đưa nước ta trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới. Trong số đó, BTA Việt - Mỹ ký ngày 13.7.2000 và có hiệu lực từ 2001 là một dấu mốc lịch sử hội nhập kinh tế thế giới.

img

Góp công lớn trong 5 năm đàm phán BTA Việt - Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam nguyên Vụ trưởng Vụ Âu Mỹ và các tổ chức quốc tế của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), cho biết Việt Nam bước vào đàm phán trong bối cảnh "đáy của sự nghèo khó". GDP cả nước lúc đó chỉ 33 tỉ USD, bằng 1/3 doanh thu của Công ty CocaCola. Nền kinh tế Mỹ là 18.000 tỉ USD. Các nước xã chủ nghĩa xã hội thì sụp đổ, mất hết thị trường xuất khẩu.

Trước khi được giao nhiệm vụ Trưởng đoàn đàm phán BTA với Mỹ, ông Lương có hơn 20 năm đàm phán quốc tế nhưng cũng phải thừa nhận: "Khó khăn khi ấy nó khác thường lắm, Việt Nam và Mỹ không tin nhau, bởi cuộc chiến tranh ác liệt quá. Mọi quyết định đưa ra đều phải thận trọng vì mình ở thế quá khó, phải mất đến 5 năm hai bên mới đặt bút ký".

Với Việt Nam, giá trị lớn nhất của BTA Việt - Mỹ đối với Việt Nam là xóa bỏ nền kinh tế bao cấp để xây dựng kinh tế thị trường, mở toang cánh cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đây cũng chính là "bước đệm", mở đường đưa Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) 5 năm sau đó. Bởi "luật chơi" của WTO là phải có nền kinh tế thị trường và khi "chơi được với Mỹ thì chơi được với cả thế giới".

img

BTA Việt - Mỹ góp phần hình thành đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam phát triển như hôm nay; tham gia sâu vào chuỗi giá trị của khu vực, thế giới, đưa nền kinh tế từ 33 tỉ USD đến nay gần 500 tỉ USD. "Tôi nhớ khi đó VN xuất khẩu sang Liên Xô kế hoạch mỗi năm là 1 tỉ USD nhưng chỉ đạt 750 - 800 triệu USD. Và hai năm sau BTA Việt - Mỹ có hiệu lực chúng ta xuất khẩu vài tỉ USD và Mỹ luôn là thị trường xuất siêu lớn lớn nhất", ông Lương nói.

img

Trong quá trình hội nhập, bên cạnh FTA và doanh nghiệp toàn cầu, một làn sóng công nghiệp 4.0 và tự động hóa đã manh nha định hình tương lai Việt Nam. Theo thị trường, Việt Nam từng là thị trường robot đứng thứ 7 thế giới năm 2017, phản ánh nhu cầu mạnh mẽ tự động hóa trong sản xuất và logistics. ELBOT robot công nghiệp 6 trục do người Việt chế tạo, với 80% linh kiện nội địa, độ chính xác ± 0,1 mm và tải 6 kg, là minh chứng cho đổi mới sáng tạo trong ngành chế tạo robot trong nước. VinMotion, công ty của Tập đoàn Vingroup thành lập năm 2025, đã công bố robot Motion 1 điêu luyện biểu diễn múa đồng bộ tại sự kiện quốc gia - dấu mốc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên robot người máy (humanoid).

img

Việt Nam đã trở thành 1 trong 20 nền kinh tế xuất khẩu lớn nhất thế giới với dệt may, điện tử, da giày. Trong danh sách tỷ phú thế giới năm 2025 của FORBES, có 5 doanh nhân đến từ Việt Nam gồm Chủ tịch Vingroup Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch VietJet Air Nguyễn Thị Phương Thảo, Chủ tịch Hòa Phát Trần Đình Long, Chủ tịch Techcombank Hồ Hùng Anh và Chủ tịch Masan Nguyễn Đăng Quang.

img

Và hơn hết, những câu chuyện vươn ra biển lớn đã được viết nên bởi cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, từ Viettel, VinFast, Hòa Phát… Tập đoàn Hòa Phát hiện là doanh nghiệp thép lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Viettel đã mở rộng đầu tư ra thị trường quốc tế từ năm 2006, bắt đầu với Lào và Campuchia, sau đó mở rộng sang các nước khác ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Hiện Viettel Global, công ty con của Viettel, đã có mặt tại 10 quốc gia trên 3 châu lục, phục vụ 90 triệu khách hàng.

Trong khi đó, VinFast (công ty con của Vingroup) không chỉ nhanh chóng mở rộng các nhà máy tại Việt Nam, mà còn thần tốc thi công nhà máy tại Ấn Độ và có kế hoạch đầu tư thêm nhà máy tại các nước.

img
img

Hạ tầng, thể chế, kinh tế số - Trụ cột cho khát vọng hùng cường

img

Năm 2025 ghi dấu mốc quan trọng hoàn thành toàn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông dài 2.063 km. Lần đầu tiên Việt Nam có mạng lưới cao tốc trục dọc và trục ngang 3.000 km, nối dài một dải non sông từ cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn) qua Cao Bằng đến tận mũi Cà Mau. Hơn 2.000 km cao tốc đã hoàn thành trong nhiệm kỳ này - con số kỷ lục nếu so với cả giai đoạn 20 năm, Việt Nam chỉ làm được khoảng 1.000 km cao tốc.

img

Với tinh thần “3 ca, 4 kíp”, “vượt nắng thắng mưa” trên các công trường, Bộ trưởng Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết sẽ nỗ lực để tới năm 2030, mạng lưới cao tốc mở rộng lên 5.000 km, đẩy nhanh tiến độ thi công đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; khởi công dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam… Đột phá hạ tầng đã trở thành một trong 3 trụ cột quan trọng cùng với đột phá thể chế và đột phá nhân lực để đưa kinh tế đất nước bứt tốc.

Bên cạnh đó, với Nghị quyết 57, Đảng đã xác định phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là chìa khóa để Việt Nam "cất cánh", đưa đất nước tiến xa hơn trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động bất thường.

Việt Nam đang được thế giới biết đến như một điểm đến triển vọng của ngành công nghiệp bán dẫn. Theo Bộ Tài chính, một dấu mốc mang tính biểu tượng trong hành trình hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành bán dẫn Việt Nam chính là việc 2 tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới là NVIDIA và Qualcomm đã lựa chọn Việt Nam là cứ điểm chiến lược cho hoạt động sản xuất, nghiên cứu và phát triển Al và chip…

img

Không chỉ trong nước, cộng đồng quốc tế cũng nhìn nhận Việt Nam như một điểm sáng nổi bật của khu vực, với nhiều đánh giá tích cực từ các tổ chức toàn cầu hàng đầu. Ngân hàng Thế giới (WB) khẳng định Việt Nam đã trở thành “một trong những quốc gia năng động nhất Đông Á, từ một nước nghèo vươn lên nhóm thu nhập trung bình và đặt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045”.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhấn mạnh trong ba thập niên qua, Việt Nam “đã đưa hơn 40 triệu người thoát nghèo, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người thuộc nhóm cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc”. Liên Hiệp Quốc đánh giá Việt Nam “đang có vai trò ngày càng quan trọng trong duy trì hòa bình và phát triển bền vững ở khu vực, với những đóng góp tích cực cho lực lượng gìn giữ hòa bình toàn cầu”.

img

Sau gần 40 năm đổi mới, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô GDP nước ta đã tăng vọt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 6,67%, có những giai đoạn hoàng kim (1992 - 1997, 2005, 2022) vượt ngưỡng 8 - 9%. Tuy nhiên, Đảng, Chính phủ cũng nhận thức rõ, giai đoạn tăng trưởng thần kỳ dựa trên các lợi thế cũ về tài nguyên, lao động giá rẻ, dựa vào FDI để xuất khẩu… đã đi đến hồi kết.

Để tránh nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, đứng vào top các nước phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP phải đột phá lên hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, một cuộc cách mạng thần tốc đã được triển khai trong thời gian ngắn từ “sắp xếp lại giang sơn”, tinh gọn bộ máy, sáp nhập các bộ, ngành, địa phương, thực hiện chính quyền 2 cấp; cho đến nỗ lực cải cách thể chế “điểm nghẽn của điểm nghẽn” và triển khai bộ tứ trụ cột (nghị quyết 57, 59, 66, 68)...

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, Việt Nam đang sẵn sàng cho phát triển đột phá từ tư duy, tầm nhìn đến hành động cụ thể, tạo nền tảng vững chắc đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

img

Sau 80 năm từ mốc son lịch sử năm 1945, và sau gần 40 năm đổi mới tính từ 1986, Việt Nam đang tiếp tục công cuộc đổi mới lần thứ 2. Đến năm 2045, đúng dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao, xây dựng nền kinh tế xanh – số – sáng tạo, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với đó là một quốc phòng – an ninh vững mạnh, hiện đại hóa toàn diện quân đội, giữ vững độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia.

Như lời kêu gọi của Tổng Bí thư Tô Lâm: những người dân Việt Nam “cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc 5 châu vào năm 2045.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Top