Cụ thể, The New Yorker liệt kê chi tiết các sự kiện dẫn đến vụ Waymo kiện Uber vào năm 2017, cáo buộc Uber đánh cắp bí mật thương mại của hãng để phát triển xe tự lái. Trong những năm đầu trước cuộc chiến pháp lý trên, Google có phương pháp tiếp cận lỏng lẻo trong vấn đề an toàn phương tiện khi làm xe tự lái.
Theo bài báo, Google gây nhiều tai nạn liên quan đến ô tô tự lái trước khi bang California có quy định rằng tất cả doanh nghiệp đều phải báo cáo các vụ tai nạn loại này trong năm 2014. Nhiều giám đốc Google giấu tên tiết lộ rằng hơn một chục vụ tai nạn đã xảy ra trong những năm đầu của dự án phát triển xe tự hành có tên Project Chauffeur. Project Chauffeur giờ đã là doanh nghiệp độc lập với tên gọi Waymo, thuộc công ty mẹ của Google là Alphabet.
Vụ tai nạn đáng chú ý liên quan đến Anthony Levandowski, kỹ sư quan trọng thuộc Project Chauffeur. Ông cũng là người ở trung tâm trong vụ kiện Uber ăn cắp bí mật thương mại từ Waymo. Năm 2011, Levandowski bước vào xe tự lái Prius với sếp Google Isaac Taylor. Ông muốn chứng minh rằng sự thay đổi phần mềm trên xe tự lái của mình là cần thiết, song cuối cùng lại gây tai nạn khiến ông Taylor chấn thương cột sống.
Levandowski thừa nhận rằng với ông khi đó, sự đổi mới đã vượt qua yếu tố an toàn. Ông kể trên tờ The New Yorker: “Nếu công việc của bạn là thúc đẩy, phát triển công nghệ, an toàn không thể là yếu tố quan tâm số một. Nếu nó là mối quan tâm hàng đầu, bạn sẽ không thể làm gì. Chuyện để chiếc xe trên đường bình thường luôn an toàn hơn. Bạn không bao giờ học hỏi được từ sai lầm thực sự”.
Trước thông tin này, phát ngôn viên của Waymo chia sẻ: “Dự án xe tự hành của Google được thành lập với nhiệm vụ cải thiện an toàn giao thông, và đó là tiêu chuẩn mà chúng tôi giữ. An toàn là ưu tiên cao nhất khi chúng tôi thử nghiệm, phát triển công nghệ”.
Bình luận (0)