Bài minh bia trên lăng Nguyễn Hữu Hào

20/09/2015 06:02 GMT+7

Lâu nay người ta thường nói nhiều về Nam Phương Hoàng hậu, về ông ngoại của bà là Huyện Sĩ - người giàu nhất xứ Nam kỳ (cuối thế kỷ 19) - mà ít nhắc đến song thân của bà.

Lâu nay người ta thường nói nhiều về Nam Phương Hoàng hậu, về ông ngoại của bà là Huyện Sĩ - người giàu nhất xứ Nam kỳ (cuối thế kỷ 19) - mà ít nhắc đến song thân của bà.

Lâu nay người ta thường nói nhiều về Nam Phương Hoàng hậu, về ông ngoại của bà là Huyện Sĩ - người giàu nhất xứ Nam kỳ (cuối thế kỷ 19) - mà ít nhắc đến song thân của bà.

Bài minh bia trên lăng Nguyễn Hữu HàoToàn cảnh lăng Nguyễn Hữu Hào - Ảnh: T.L
Bà Lê Thị Bính là con gái thứ của đại điền chủ Huyện Sĩ - Lê Phát Đạt (em ruột ông Lê Phát An). Đó là một thiếu nữ đẹp, có khuôn mặt phúc hậu, gia đình theo đạo Công giáo nên thuở nhỏ được cha gửi vào học trường dòng tại Sài Gòn. Khi trưởng thành, cô Bính được cha gả về một nơi cũng “môn đăng hộ đối” không kém: gia đình của đại địa chủ Nguyễn Hữu Hào. Ông Hào quê quán tại Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), cũng có đạo Công giáo. Ông từng được du học bên Pháp, có bằng tú tài toàn phần (lúc đó rất hiếm người Việt đỗ đạt cỡ này). Ruộng đất của gia đình ông Hào rải rác khắp các tỉnh Nam kỳ, riêng tại Q.Long Mỹ (thuộc tỉnh Rạch Giá) vào thời điểm 1930, gia đình ông có hơn 1.000 mẫu ruộng (sau này khi được con rể là Hoàng đế Bảo Đại phong tước Quận công, ông đã chọn địa danh Long Mỹ đứng trước tước hiệu của mình, trở thành Long Mỹ Quận công).
Là người theo Tây học, có kiến thức về kinh doanh nên sau khi thành hôn, ông khai khẩn nhiều đồn điền cao su ở Biên Hòa, Bà Rịa… Ông còn rủ các anh em bên vợ lên Đà Lạt khai khẩn đồn điền trồng trà và cà phê, có nhiều đồn điền ở vùng Cầu Đất (gần TP.Đà Lạt). Thường nhật, vợ chồng ông Hào sống trong ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du, TP.HCM (nay là Lãnh sự quán Hàn Quốc, đối diện Báo Công an TP.HCM).
Bài minh bia trên lăng Nguyễn Hữu Hào 2Bài minh bia bằng chữ Hán
Ông bà Nguyễn Hữu Hào chỉ sinh được 2 người con gái: trưởng nữ là Agnès Nguyễn Hữu Hào, được gả cho một quý tộc người Pháp là Nam tước Pierre Didelol lúc đó đang giữ chức Khâm mạng Hoàng triều cương thổ (Hoàng triều cương thổ là vùng đất biên cương do hoàng gia cai quản, gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng ngày nay). Cô em là Mariette Jeannette Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 4.12.1914 tại Gò Công. Đẹp, con nhà trí thức, giàu có nên cô được các viên chức người Pháp chọn để tiếp cận vị vua trẻ Bảo Đại. Vậy là họ sắp xếp để hai người gặp nhau trong một bữa tiệc do viên Đốc lý Đà Lạt tổ chức. Vị vua trẻ “gục” ngay trước nhan sắc của cô Tú tài toàn phần 18 tuổi, nói tiếng Pháp như gió và biết hành lễ theo nghi thức Âu Tây đối với bậc quân vương… Ngày 6.2.1934, lễ cưới của Nguyễn Hữu Thị Lan và Hoàng đế Bảo Đại diễn ra tại điện Kiến Trung trong Hoàng thành Huế.
Khác với tất cả 12 hoàng hậu triều Nguyễn trước đó chỉ được phong hoàng hậu sau khi qua đời, Nguyễn Hữu Thị Lan “ra điều kiện” với ông vua si tình là phải phong cho mình làm hoàng hậu ngay sau khi cưới, vì thế lễ tấn phong hoàng hậu diễn ra ngay ngày hôm sau tại điện Dưỡng Tâm, cô Nguyễn Hữu Thị Lan trở thành Nam Phương Hoàng hậu.
Hai cặp câu đối chữ Hán trên lăng
Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần ngày 13.9.1937 và được an táng theo nghi thức tước Quận công trong một ngôi nhà mồ tráng lệ, trên một ngọn đồi gần thác Cam Ly, Đà Lạt. Sau 4 năm xây dựng, lễ quy lăng diễn ra ngày 10.9.1941 với sự hiện diện của vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu, bà Nam tước chị ruột hoàng hậu và chồng là Didelot Khâm mạng Hoàng triều cương thổ, Toàn quyền Decoux và phu nhân, Khâm sứ Trung kỳ Grandjean… Lăng nằm trên một ngọn đồi ở phía tây nam TP.Đà Lạt (ngã ba Hoàng Văn Thụ - Vạn Thành, rẽ phải đi về hướng Nam Ban).
Cổng vào lăng là 4 trụ đá lớn hình vuông, đỉnh trụ trang trí hình hoa sen và chó ngao. Mặt trước trụ khắc 2 cặp câu đối bằng chữ Hán (dịch nghĩa Một lòng với nước, ngàn năm sông núi mãi ghi trong sách sử, khoán ước/Nuôi dưỡng cha mẹ, trăm năm cây gió khắc ghi nỗi đau buồn trên chuông đỉnh. Và Chót vót chống trời, phảng phất khí thiêng về nơi an lạc/Đất thiêng tốt lành, bao trùm vượng khí bảo vệ chốn giai thành). Đường lên lăng gồm nhiều bậc, cây cỏ um tùm, gần cuối đường có cặp sư tử đá đứng chồm trên trụ canh giữ, quanh lăng có thành lan can bao bọc. Lăng xây trên đỉnh đồi hình đóa sen đang nở, mái lợp ngói lưu ly xanh với các đầu đao cong lên như các kiến trúc Á Đông nhưng trên nóc lăng có cây thánh giá. Mặt tiền lăng là một sân tế rông dựng một bia đá, đầu bia hình vòng cung chạm trổ hoa lá. Trong lăng có 2 ngôi mộ lớn bằng đá xanh, cao khoảng 30 cm, hình chữ nhật mặt phẳng. Trên mặt mộ, có chạm trổ hoa văn quanh riềm và hình một thánh giá lớn giữa mộ. Đó là mộ Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bính. Ở giữa hai ngôi mộ có một hương án (còn là bàn để các linh mục hành lễ). Phía sau bàn thờ này có trổ một cửa vuông rộng nhìn ra một nhà bia nhỏ, bia bằng đá xanh, chạm trổ trên đầu và chung quanh bài minh bia hình chữ nhật.
Nội dung bài minh bia: “Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào. Khí thiêng Đồng Nai, anh linh Tiền Giang. Hun đúc nên người, sinh bậc hiền triết tài năng. Kính nghĩ: cha ta trời ban chân tính, lòng từ hiếu hảo. Giữ thân đoan chính, gặp buổi văn minh. Kiến thức sâu rộng, giàu lòng đạo đức, người đều ngưỡng mộ. Lễ giáo gia truyền, đức lớn sinh ta. Bệ son rợp ơn, dòng dõi vẻ vang. Thiên tử ơn sâu, tấn phong Công tước. Ước định khoản thư, bền với non sông. Nhưng tuần bảy mươi, hóa cõi về trời. Danh cao bất hủ, muôn đời còn ghi. Ngắm trông núi hồ, mây trắng vời vợi. Bên gò cảm xúc, gió thông vi vu. Tưởng nhớ đức xưa, tinh thần bất diệt. Nguyện cầu Thiên Chúa, che chở an lành. Cõi người ký gửi, biệt ly thường xuyên. Thiên đường hưởng phước, trăm đời đều về. Ơn sâu vô lượng, buồn bã mến thương. Dựng tòa bia này, lâu dài ngàn đời” (ngày mùng 1 tháng 8 năm Bảo Đại thứ 14 - 1939, Thiên Chúa giáng sinh năm 1939, ngày 13 tháng 9. Con gái: Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam và Phu nhân Nam tước Didelot, kính lập).
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.