Bao giờ cho đến... ngày xưa

10/09/2011 15:12 GMT+7

Đưa các cháu về quê nội nhân những ngày cuối hè chuẩn bị vào năm học mới. Cho dù bây giờ đường ô tô chạy liền một mạch, cầu cống bắc qua sông cứ tăm tắp từ phố xá về làng, nhưng tôi lại chọn cái lối đò ngang đò dọc lênh đênh để bọn trẻ được tha hồ bơi lội, tắm táp cùng… cổ tích.

Ôi chao, Con sông nào đã xa nguồn. Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (thơ Hoài Khanh). Vâng, không chỉ là buồn với tôi mà chắc là sẽ còn buồn với nhiều người. Hình như căn bệnh vong thân cũng bắt nguồn từ chuyện xa nguồn quên nguồn đó. Biết gọi tên một nỗi buồn như thế cũng tức là gọi tên trí nhớ quay về. Thành ra, chẳng phải riêng gì cho bọn trẻ nhỏ mà là cho chính tôi, có lúc quên tuổi tác khi trên những bến xưa còn dư hương của cái đẹp tựa như trong tranh vẽ của cố danh họa Nguyễn Phan Chánh: Sông biết nhớ từ tóc dài em gội!

Nhưng, dòng sông đã vào mùa hạ rồi mà con nước còn đục ngầu đầy những bèo bọt như thế kia thì có mà nhuộm vàng, nhuộm đỏ tóc tai chứ tắm táp nỗi gì. Đục ở đây không phải là Từng giọt phù sa tháng ba tháng bảy, mà là do sự tác hại của môi trường vùng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề suốt từ bao năm nay. Thông thường những dòng sông con về mùa hạ đều trong veo trong vắt, và mực nước xuống rất thấp, có đoạn người ta chỉ cần xắn quần lội qua sông chứ chả phải đò giang gì.

Làng tôi nằm giữa vây quanh sông nước. Trước làng sông trôi, sau làng sông chảy, vắt từ nhánh sông này qua nhánh sông kia lại cũng một dòng sông. Giàu có sông nước như vậy nên phù sa màu mỡ cũng thuộc vào hàng ít ai sánh bằng. Ấy là tôi nói chuyện đời xưa, thuở mà các cô các chị Qua cồn mang giỏ hái dâu. Hái dâu không hái hái câu ân tình. Vâng, dâu xanh bạt ngàn dâu xanh! Những triền gành cồn bãi tít tắp xanh từ đầu sông đến cuối sông, mà nào chỉ dâu xanh không thôi, còn bao thứ hoa trái khác: dưa hấu, đậu phụng, đậu xanh, mè, ớt… cứ thi thố với nhau mà tươi tốt, mà đẹp. Đẹp nhất là các chị các em, những buổi chiều mùa xuân mùa hạ, sau những buổi hái dâu, hái đậu, hái dưa… tất cả đổ ra bến sông ngụp lặn gội tắm tâm tình. Nước sông mát rười rượi và trong vắt nhìn thấu tận đáy. Từng suối tóc mềm mại như tóc tiên buông lơi theo dòng, da dẻ nõn ra hồng hào giữa sông nước mà thỏa sức trong như ngọc trắng như ngà. Cứ nhìn vào đất đai trù phú đó, người ta sẽ hiểu sức sống của hoa trái và văn hóa của vùng đất ấy đẹp đến nhường nào!

Bây giờ thì vẫn những dòng sông ấy, nhưng mùa lũ lụt thì nước xiết chảy điên cuồng, cây rừng đốn hạ vô tội vạ trôi đầy sông. Đến nỗi người ta mô tả: có thể lội bộ trên cây mà qua sông được. Những vùng đất màu mỡ ven sông lở hàng trăm héc-ta, có làng lở trôi tuốt biển Đông phải di dời tất cả. Mùa nắng mùa khô nào có hơn gì, nước cạn nông đến kiệt dòng, đục ngầu một màu ô nhiễm bệnh hoạn. Hết nạn lâm tặc đến sa tặc, đến khoáng tặc, rồi còn bao thứ tặc khác tàn phá vùng đầu nguồn. Những dòng sông quê thương tích đầy mình lặng lẽ chảy qua bao bến bờ hoang vắng. Nhìn cái dòng nước lừ đừ chảy đục ngầu sùi những bèo bọt kia, bọn trẻ nhà tôi chẳng đứa nào còn tơ tưởng đến tắm gội. Hình ảnh con sông quê đẹp như thơ tôi thường kể cho các cháu nghe, bây giờ chúng ngỡ như chuyện hoang đường. Mà chẳng riêng gì những dòng sông chảy quanh quất qua làng tôi. Cứ ngồi bên máy vi tính ở nhà gõ vào Google mấy chữ: “Những dòng sông bị bức tử như thế nào?”, lập tức sẽ đọc từ đầu Bắc đến cuối Nam bao nhiêu là dòng sông hiện lên: sông Cầu, sông Thương, sông Đáy, sông Sêrêpôk, sông Kôn, sông Ba, sông Trà Khúc… Tiếng báo động kêu cứu từ các báo, đài ngày này qua tháng khác xem ra chẳng thấm tháp tới đâu. Đấy là chưa nói đến mấy cái thủy điện lớn, nhỏ ở trên những non cao, cái đã hoàn thành, cái đang xây dựng. Thủy điện nào ở núi non mà chẳng triệt hạ cây rừng, cày xới đất núi. Lẽ đương nhiên, “bài ca” nghe quen thuộc vẫn là: bố trí kinh phí trồng rừng, rồi cắt lũ vào mùa mưa, bổ sung nước tưới cho mùa khô hạn… Vậy mà thực tế đã trả lời từ bao năm qua là bài học nhãn tiền.

Câu nói của bác nông dân già trên chuyến đò ngang qua sông cùng tôi và bọn trẻ trong giây phút tào lao thiên địa về chuyện sông bồi sông lấp, làm tôi chột dạ: “Lúc nào mà đất trời nổi giận làm cho sơn băng thủy kiệt thì đấy là lúc đáng sợ nhất”. Chẳng rõ câu nói ấy là do kinh nghiệm hay là gì, nhưng có lẽ trước thiên nhiên đầy bí mật, những dự báo cho con người quả thật không vô ích. Giữa khoảnh khắc ưu tư ấy, bọn trẻ hồn nhiên hỏi tôi mà như hỏi vu vơ tận đâu đâu: Bao giờ sông lại xanh trong? Làm sao tôi có thể trả lời được. Một câu hỏi nghe ra đẹp hao hao như một ý thơ nhưng lại nhuốm màu tuyệt vọng: Bao giờ cho đến ngày xưa? Nghĩa là hỏi như là thả nỗi lòng mình vào đất trời mênh mông, mà trả lời nó chỉ còn biết ngâm nga câu thơ ngày xưa của cụ Tú Xương cho đỡ buồn: Vẳng nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.  

Nguyễn Nhã Tiên

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.