Tiến sĩ Trần Thị Mai Phương, nguyên Trưởng bộ môn Chế biến, bảo quản sản phẩm chăn nuôi và an toàn thực phẩm (Viện Chăn nuôi quốc gia), cho biết, bà và các cộng sự của bộ môn đã nghiên cứu ứng dụng thành công kỹ thuật bảo quản trứng gia cầm ở nhiệt độ thường bằng dầu paraffin.
Kỹ thuật này cho phép bảo quản trứng gia cầm được 35 ngày ở nhiệt độ bình thường vào mùa nóng không cần điều hòa và 56 ngày vào mùa đông.
Theo tiến sĩ Phương, phun 15 ml dầu paraffin vào bề mặt 100 trứng vịt sẽ kéo dài được thời gian bảo quản đến 28 ngày vào mùa xuân và mùa hè, 35 ngày vào mùa thu và mùa đông. Nếu không được bảo quản bằng dầu paraffin, trứng vịt chỉ bảo quản được 7 ngày vào mùa hè và 14 ngày vào mùa đông.
Tương tự, khi phun 10 ml dầu paraffin cho 100 quả trứng gà tươi sẽ bảo quản được 35 ngày vào mùa xuân và mùa hè, 42 ngày vào mùa thu, 49 ngày vào mùa đông. Nếu không được bảo quản bằng dầu paraffin, trứng gà chỉ bảo quản được 7 ngày vào mùa hè và mùa xuân, 14 ngày vào mùa thu và 21 ngày vào mùa đông.
|
“Trứng gia cầm được bảo quản bằng dầu paraffin có chất lượng tốt, đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Chi phí bảo quản bằng loại dầu này rất thấp, chỉ 1.000 - 1.500 đồng/100 quả trứng. Đề tài nghiên cứu đã được nghiệm thu và công bố”, tiến sĩ Phương nói.
Theo tiến sĩ Phương, các nhà khoa học ở Viện Chăn nuôi quốc gia cũng đã nghiên cứu thành công kỹ thuật bảo quản thịt heo và thịt gà các phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế và bảo quản bằng đóng gói với khí quyển điều chỉnh (MAP).
Cụ thể, sự dụng hỗn hợp dung dịch axit với nồng độ 1,5% axit axetic + 1,5% a xít lactic, hỗn hợp muối của a xít hữu cơ và muối photphat với nồng độ 5% STPP + 3% natrilactat hoặc 1,5% a xít lactic + 10% muối Tri-natri photphat ở nhiệt độ 0-4 độ C sẽ bảo quản được thịt trong 18 ngày.
Với phương pháp MAP, khi sử dụng tỷ lệ khí CO2/N2 là 70%/30%, bảo quản ở nhiệt độ 0-4 độ C sẽ giúp thịt tươi ngon trong 18 ngày.
Các sản phẩm bảo quản đều có chất lượng tốt, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo TCVN 7046:2009 và QCVN 8-3:2012/BYT.
Bình luận (0)