Theo nghị trình, trong sáng nay, Quốc hội sẽ thảo luận tại tổ về dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Dự án có chiều dài tuyến khoảng 1.541km, xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435mm với tốc độ thiết kế 350 km/h. Đường sắt tốc độ cao, theo phương án Chính phủ trình, sẽ vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Theo phương án thiết kế sơ bộ được Chính phủ đệ trình, hướng tuyến của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được nghiên cứu và lựa chọn "ngắn nhất có thể".
"Dự án cũng hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường, các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đất quốc phòng; giảm khối lượng giải phóng mặt bằng, tránh các khu vực đông dân cư", ông Thắng cho hay.
Trên dọc tuyến cao tốc, Chính phủ dự kiến bố trí 23 ga hành khách, mỗi vị trí ga quy hoạch không gian phát triển từ 200 đến 500 ha. 5 ga hàng hóa có quy mô mỗi ga khoảng 24,5 ha.
Về phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư, Chính phủ cho biết sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827 ha; số dân tái định cư khoảng 120.836 người.
Dự án này sẽ được thực hiện theo hình thức đầu tư công với tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỉ đồng (khoảng 67,34 tỉ USD).
Dự kiến nguồn vốn ngân sách Nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm (từ năm 2025 đến năm 2037), bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỉ USD - tương đương khoảng 1,3% GDP năm 2023 và khoảng 1% GDP năm 2027 (thời điểm khởi công dự án). Quá trình triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư.
Về tiến độ, Chính phủ tính toán hoàn thành công tác lập và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế vào năm 2025 - 2026; khởi công dự án năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Theo báo cáo của Chính phủ, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ góp phần tăng cường kết nối các cực tăng trưởng, mở ra không gian phát triển kinh tế mới; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Dự án nếu được phê duyệt sẽ tạo tiền đề quan trọng để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; tạo động lực phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ.
Rà soát kỹ khả năng ngân sách phải bù lỗ hoạt động
Nêu ý kiến thẩm tra, Ủy ban Kinh tế Quốc hội đề nghị bổ sung, đánh giá toàn diện hơn đối với phương án tài chính của dự án trong giai đoạn vận hành, khai thác đặt trong tổng thể nhu cầu nguồn vốn đầu tư công và bổ sung kinh nghiệm quốc tế trong việc tổ chức, vận hành, khai thác đường sắt tốc độ cao.
Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát kỹ lưỡng, lựa chọn phương án tối ưu kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao với mạng lưới đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, hệ thống giao thông khác...
Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn các phương án so sánh với hướng tuyến theo đề xuất của Chính phủ, đồng thời thuyết minh kỹ lưỡng hướng tuyến theo nguyên tắc "thẳng nhất có thể", nhất là đoạn đi qua tỉnh Nam Định, để bảo đảm hiệu quả cho dự án.
Tán thành đầu tư công, song Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ một số vấn đề về hiệu quả của dự án. Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, dự án khả thi về mặt kinh tế.
Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho rằng, dự án được đặt trong tình hình rất lạc quan về tốc độ tăng trưởng, nhưng trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới có nhiều biến động khó lường, cần đặt ra những kịch bản khác nhau để có cơ sở xem xét, quyết định.
Về hiệu quả tài chính, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ các cơ sở tính toán dự báo về nhu cầu vận tải của dự án, khi thực tế thời gian qua việc dự báo nhu cầu vận tải của nhiều dự án giao thông BOT có sự chênh lệch lớn so với thực tế, dẫn đến thiếu hiệu quả về phương án tài chính phải điều chỉnh hợp đồng.
Báo cáo của Hội đồng thẩm định Nhà nước cho rằng, doanh thu và tăng trưởng doanh thu đang dự báo cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, đề nghị rà soát kỹ lưỡng để đánh giá đúng thực tế hiệu quả tài chính và khả năng ngân sách nhà nước phải bù lỗ trong tương lai cho hoạt động kinh doanh vận tải trên tuyến đường sắt tốc độ cao.
Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn tính khả thi, hiệu quả việc tính toán giá vé bằng 60 - 70% giá vé bình quân các hãng hàng không đang khai thác trên cùng chặng và làm rõ cách tính giá vé toàn chặng (nhiều hành khách không đi toàn tuyến). So sánh với các tuyến đường sắt tốc độ cao tương tự của các quốc gia trên thế giới, trong khi Việt Nam chưa làm chủ được công nghệ và phải nhập khẩu, đầu tư nhiều hạng mục, có thể dẫn đến giá vé cao hơn thực tế.
Do đó sẽ ảnh hưởng đến việc đầu tư phát triển của các cảng hàng không trong tương lai, vì vậy đề nghị cần tiếp tục rà soát các quy hoạch của 5 phương thức vận tải để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả đầu tư.
Bình luận (0)