Sửa đổi cách tính thuế cho thuê nhà
Thông tư 40 có hiệu lực từ ngày 1.8, Bộ Tài chính thấy rằng có một số nội dung phát sinh vướng mắc nên cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế.
Thông tư 40 quy định “Cá nhân cho thuê tài sản không phát sinh doanh thu đủ 12 tháng trong năm dương lịch (bao gồm cả trường hợp có nhiều hợp đồng cho thuê) thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân cho thuê tài sản không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN là doanh thu tính thuế TNCN của một năm dương lịch (12 tháng); doanh thu tính thuế thực tế để xác định số thuế phải nộp trong năm là doanh thu tương ứng với số tháng thực tế phát sinh cho thuê tài sản”.
Để làm rõ hơn quy định này, Bộ Tài chính dẫn ví dụ ông B phát sinh hợp đồng cho thuê nhà với thỏa thuận tiền cho thuê là 10 triệu đồng/tháng trong thời gian từ tháng 10.2022 đến hết tháng 9.2023. Như vậy, doanh thu thực tế năm 2022 là 30 triệu đồng, nhưng tổng doanh thu tính theo 12 tháng của năm 2022 là 120 triệu đồng; doanh thu thực tế năm 2023 là 90 triệu đồng, nhưng tổng doanh thu tính theo 12 tháng của năm 2023 là 120 triệu đồng. Do đó, ông B thuộc trường hợp phải nộp thuế GTGT, phải nộp thuế TNCN tương ứng với doanh thu thực tế phát sinh của năm 2022 và năm 2023 theo hợp đồng nêu trên. Ngay tức thì, quy định này đã gặp phải phản ứng từ dư luận trước khi Thông tư 40 chưa có hiệu lực bởi người cho thuê nhà trong năm không có thu nhập trên 100 triệu đồng mà vẫn phải nộp thuế.
Bộ Tài chính đã sửa đổi điểm c, khoản 1, Điều 9 theo hướng “cá nhân chỉ có hoạt động cho thuê tài sản và thời gian cho thuê không trọn năm, nếu phát sinh doanh thu cho thuê từ 100 triệu đồng/năm trở xuống thì thuộc đối tượng không phải nộp thuế GTGT, TNCN. Trường hợp bên thuê trả tiền thuê tài sản trước cho nhiều năm thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN là doanh thu trả tiền một lần được phân bổ theo năm dương lịch”.
Ông Trần Xoa - Giám đốc Công ty Luật Minh Đăng Quang cho rằng dự thảo đã không nêu ví dụ cụ thể hướng dẫn thực hiện việc thu thuế đối với người cho thuê nhà như trước nên có thể hiểu “doanh thu trả tiền một lần được phân bổ theo năm dương lịch” có nghĩa được tính theo năm dương lịch không vượt quá 100 triệu đồng thì không tính thuế. Ví dụ, người cho thuê nhà từ tháng 8.2021 qua tháng 8.2022, tiền cho thuê mỗi tháng là 10 triệu đồng. Như vậy trong năm 2021, phát sinh tiền thuê nhà 40 triệu đồng thì không phải nộp thuế, qua năm 2022, phát sinh tiền thuê nhà 80 triệu đồng cũng sẽ không phải nộp thuế. “Ở quy định này, Bộ Tài chính nên cho ví dụ cụ thể minh họa để có thể thực hiện cho đúng”, ông Trần Xoa kiến nghị.
Cần quy định thêm về hoàn thuế
Ngoài ra, dự thảo còn sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thêm việc hộ khoán đã được cơ quan thuế thông báo nộp thuế từ đầu năm nhưng trong năm ngừng hoặc tạm ngừng kinh doanh thì cơ quan thuế thực hiện điều chỉnh nghĩa vụ thuế theo quy định. Trường hợp hộ khoán mới ra kinh doanh trong năm (kinh doanh không đủ 12 tháng) thì thực hiện nộp thuế khi có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm, còn nếu doanh thu dưới mức này thì không nộp thuế.
Ông Trần Xoa cho rằng quy định sửa đổi, bổ sung còn thiếu quy định hoàn thuế cho trường hợp hộ kinh doanh ngừng hoặc tạm ngừng kinh doanh có doanh thu năm dưới 100 triệu đồng. Trong trường hợp, hộ kinh doanh đã đóng thuế theo thông báo từ đầu năm nhưng trong năm ngừng hoạt động và doanh thu không đến 100 triệu đồng như nguyên tắc ban đầu khi xác định đối tượng nộp thuế, vậy cơ quan thuế có hoàn lại số tiền mà hộ khoán đã đóng những tháng trước đó hay không. Nếu cho hoàn lại số tiền thuế đã nộp, ban soạn thảo cần bổ sung quy định hoàn như thế nào để người nộp thuế thực hiện.
Ngoài ra, dự thảo còn bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử trong trường hợp sàn giao dịch thương mại điện tử không thực hiện khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân kinh doanh thông qua sàn theo ủy quyền thì sàn có trách nhiệm cung cấp thông tin cá nhân kinh doanh như họ tên, định danh cá nhân hoặc số CMND, căn cước công dân hoặc hộ chiếu; mã số thuế, địa chỉ, số điện thoại liên lạc, doanh thu bán hàng qua sàn, tài khoản ngân hàng của người bán. Việc cung cấp thông tin được thực hiện định ký hằng quý.
Bình luận (0)