Chương trình giáo dục mới có giảm dạy thêm, học thêm?

06/12/2022 06:05 GMT+7

Chương trình giáo dục phổ thông 2018 với mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực, định hướng nghề nghiệp , phân luồng học sinh hiệu quả hơn, giảm áp lực kiểm tra, thi cử, tuyển sinh đa dạng phương thức... Những điều này liệu có làm cho dạy thêm, học thêm giảm?

Lý do khiến dạy thêm, học thêm vẫn cao

Theo các nhà nghiên cứu giáo dục, cần xem xét vấn đề dạy thêm học thêm (DTHT) từ nhiều góc độ khác nhau như: chương trình giáo dục; kiểm tra, thi cử; tâm lý của phụ huynh, học sinh (HS); lương và đời sống của giáo viên (GV)... Với tiếp cận này, đã có nhiều ý kiến phân tích, lý giải nhưng vẫn chưa có giải pháp quản lý DTHT hiệu quả. Theo TS Nguyễn Phương Chi (ĐH Pennsylvania, Mỹ), để hiểu sâu sắc hơn về DTHT, cần phân tích vấn đề này dưới các thuyết xã hội, như thuyết chức năng và thuyết xung đột.

Từ góc nhìn của thuyết chức năng, đó là do hệ thống giáo dục còn nặng về truyền thụ một chiều, kiểm tra, đánh giá trọng tâm là kiến thức, kỹ năng nên tạo áp lực dung nạp kiến thức cho HS, tăng nhu cầu học thêm trong xã hội.

Kế đến, dù chất lượng trường công được cải tiến, nhưng hệ thống giáo dục công, chính khóa chưa thỏa mãn nhu cầu về kiến thức, kỹ năng để vượt qua kỳ thi tuyển đầu cấp, thi vào trường chuyên, vào đại học tốp đầu... nên phụ huynh thường tìm đến các lớp học thêm để bù đắp cho con.

Học sinh tại TP.HCM tham gia lớp học thêm ngoài giờ học chính khóa

NHẬT THỊNH

Tâm lý của phụ huynh VN lo sợ nếu con chỉ tự học thôi sẽ thua kém bạn bè, khó thành công sau này. Ngay cả một bộ phận gia đình khá giả có con học trường quốc tế vẫn đầu tư hàng trăm triệu mỗi năm cho con học thêm, như thông tin phản ánh từ Báo Thanh Niên.

Như vậy, lý do để tồn tại của DTHT đó là nền giáo dục nặng về lý thuyết, áp lực kiểm tra, thi cử và tâm lý bằng cấp, hơn thua của phụ huynh VN. Giáo dục chưa dựa trên nền tảng học thật, thi thật và chất lượng thật mà chạy theo thành tích ảo, xếp loại HS giỏi ngày càng tăng, đỗ tốt nghiệp 100%, đỗ ĐH 100%, bất chấp tình trạng thừa thầy, thiếu thợ trong xã hội.

Gây ra những bất công trong giáo dục

Từ góc nhìn của thuyết xung đột, sự tồn tại của DTHT là một thể hiện của phân hóa giai cấp trong giáo dục. Trong đó, HS ở tầng lớp xã hội thấp (người nghèo, người khó khăn...) không có điều kiện học thêm sẽ thiệt thòi hơn HS ở tầng lớp xã hội cao hơn, có điều kiện đầu tư học thêm nhiều.

HS thuộc tầng lớp thấp khó vươn lên, cạnh tranh với HS ở tầng lớp cao trong các kỳ thi tuyển chọn, thi đầu vào, thậm chí thi tuyển nhân sự, thi vào biên chế trong tương lai. DTHT dưới quan điểm của thuyết xung đột đã “hợp thức hóa” và tiếp tay cho phân tầng giai cấp xã hội, những xung đột, bất công trong xã hội hiện nay. Ví dụ, phổ điểm tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 có 2 đỉnh không chỉ phản ánh sự phân hóa chất lượng môn tiếng Anh mà còn thể hiện sự phân hóa, phân tầng trong xã hội. DTHT đã gián tiếp thúc đẩy sự phân hóa trong xã hội và nó cũng phản ánh sự mâu thuẫn giữa yêu cầu đòi hỏi cao và thu nhập thấp của GV hiện nay.

Đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ, nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày để giảm dạy thêm học thêm

đào ngọc thạch

Hệ lụy của dạy thêm, học thêm

DTHT là nhu cầu có thật, mang lại lợi ích trước mắt cho một bộ phận HS, thu nhập cho GV và thành tích thi cử của nhà trường tăng lên. Tuy nhiên, DTHT phát sinh nhiều hệ lụy.

Trước hết, giáo dục mà không dựa nền tảng tự học là nền giáo dục không mạnh. Các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức... không DTHT nhưng họ đã đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của một thế giới luôn luôn biến động với nhiều thách thức to lớn.

DTHT làm cho quan hệ trong sáng, tình cảm thầy trò bị xói mòn, thầy cô khi đó trở thành người “bán chữ”. DTHT dẫn đến HS bị quá tải, không đủ thời gian cho tự học, suy kiệt, trầm cảm; HS được học thêm theo kiểu “học trước” gây khó khăn cho GV giảng dạy trên lớp do trình độ HS không đồng đều...

DTHT tạo nên gánh nặng chi phí cho gia đình. Báo cáo của Viện Khoa học giáo dục VN vào tháng 8.2022 chỉ ra rằng, chi phí học thêm đối với tiểu học là 32%, THCS là 42% và THPT là 43% trong tổng chi cho học tập. Gánh nặng chi phí ăn học dẫn đến vợ chồng trẻ ngại sinh con.

Giải pháp giảm dần dạy thêm, học thêm

DTHT là cái bóng (shadow education) song hành với giáo dục chính khóa, để “cái bóng” này dần thu nhỏ và biến mất cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Trước hết, dạy học, kiểm tra, đánh giá và thi cử đều cần giảm áp lực. Từng bước triển khai hiệu quả, chất lượng chương trình giáo dục 2018. Đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ, nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày để giảm DTHT như tỉnh Đồng Nai đang thực hiện. Nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục trải nghiệm, hướng nghiệp giúp HS phát hiện khả năng, năng khiếu của mình, chọn nghề nghiệp phù hợp. GV thực hiện DTHT có lương tâm, không ép học trò, không dạy thêm HS chính khóa.

Thực hiện tốt công tác phân luồng HS, tạo cơ chế liên thông, mở đối với đào tạo nghề nghiệp và đào tạo ĐH. Nhà trường chỉ phụ đạo HS yếu kém, bồi dưỡng HS giỏi, ôn thi tốt nghiệp, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu HS. Cho phép tổ chức, cá nhân mở các lớp/trung tâm đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mà trường học chưa đáp ứng được.

Phụ huynh và HS nhận thức rằng, chỉ có tự học và tự học suốt đời mới đảm bảo cho sự thành công lâu dài, chứ không phải nạp vào đầu HS càng nhiều càng tốt. Yêu cầu cao đối với GV phải song hành với trả lương và phụ cấp xứng đáng để họ không ngừng học tập, sáng tạo, phát triển nghề nghiệp của mình.

Dạy thêm, học thêm trên thế giới và VN

DTHT được hiểu là giáo dục tư, kèm thêm ngoài giờ học chính, là một hiện tượng giáo dục phổ biến ở các nước châu Á.

Ông Đặng Tự Ân, Giám đốc Quỹ quốc gia đổi mới giáo dục VN, cho biết nhiều nước châu Á có tỷ lệ HS học thêm khá cao, như: Trung Quốc có 73,8% HS tiểu học, 65,6% HS THCS và 53,5% HS THPT. Tỷ lệ này ở Hàn Quốc lần lượt là 87,9%, 72,5% và 60,5%; Nhật Bản là 15,9%, 65,2% và 24,8%; Azerbaijan có 93,1% HS cuối cấp THPT; Mông Cổ có 66% HS cuối cấp THPT; Singapore có 97% HS phổ thông.

Trung Quốc là một nước có tỷ lệ DTHT cao ở châu Á, nhưng hiện nay họ kiên quyết cấm triệt để DTHT, kể cả dạy thêm trực tuyến.

Ở VN, một nghiên cứu năm 2007 cho kết quả, có từ 46 - 54% HS phổ thông học thêm. Trong đó, HS tiểu học là 31%, HS THCS là 56% và HS THPT là 77%. DTHT tồn tại dưới 2 hình thức: trung tâm đào tạo/lớp học thêm được cấp phép và những lớp học thêm tự phát. Mặc dù bị cấm theo Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT, các lớp học thêm tự phát vẫn tồn tại khắp nơi. DTHT là vấn đề nhạy cảm, được xã hội quan tâm và không ít lần làm nóng nghị trường Quốc hội.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.