Trước khi chiến dịch diễn ra là thời điểm Tết âm lịch, nhằm khích lệ tinh thần bộ đội, bữa cơm xuất hiện bánh chưng. Nhưng chiếc bánh chỉ đơn giản với gạo ngâm trộn muối, bọc ngoài bằng lá dong.
Ông Lê Văn Khuê, Đại đội 826, Tiểu đoàn 392 nhớ lại: “Sau này, mỗi lần bóc chiếc bánh chưng ngày Tết, lại nghĩ về những anh em cùng mình bóc chiếc bánh chưng không nhân, nhớ da diết cái vị thơm ngọt của lá dong, mằn mặn của miếng bánh độc có gạo và muối”.
|
Khi đồng bào Điện Biên đi sơ tán, lúa, vật nuôi, gia súc đều để ngoài cánh đồng Mường Thanh. Cứ để đó thì địch bắt và đốt hết. Tương kế tựu kế, cấp trên giao cho chúng tôi đi vay của dân, cũng là để tránh rơi vào tay giặc - Đặng Hùng Mạnh, nguyên chiến sĩ Đại đội ĐKZ 57, Sư đoàn 308 |
Chiến dịch càng lúc càng quyết liệt, các món ăn vì thế cũng thay đổi theo. Canh đậu xanh được làm từ đậu nghiền vỡ vỏ, để nguyên hạt, đổ nước vào nồi đun sôi, khi chín cho thêm ít muối, mì chính. Những món canh khác như canh trám xanh, rau tàu bay, bí đỏ, rau rớn, rau mùng tơi... chỉ cần đun lên rồi cho thêm ít muối là xong. Thực vật chiếm phần lớn trong bữa ăn tại chiến trường.
Để đa dạng hóa các món ăn cho bộ đội đỡ ngán, anh nuôi đã phải nghĩ ra nhiều “mẹo” chế biến các món ăn. Riềng gọt vỏ thái mỏng, rang giòn, giã nhỏ trộn với muối. Cũng có khi được nạo, bông lên như hạt lạc đã giã, trộn với muối để anh em ăn với cơm nắm, thay cho muối vừng. Tùy điều kiện mà món ăn có lúc chắt chiu, nhưng cũng có khi “ngập răng”. Bên cạnh nguồn từ dưới xuôi mang lên, thực phẩm tại chỗ, thực phẩm nước bạn viện trợ được tận dụng tối đa. Thời gian sau chiến dịch còn có nguồn thức ăn tiếp tế từ... quân Pháp, thả dù xuống lòng chảo bị quân ta thu gọn.
Với bộ đội pháo cao xạ, thời kỳ đầu mỗi người có bát sắt. Bước vào chiến dịch, bát sắt mất dần; bát được chế từ vỏ dừa gửi từ Thanh Hóa lên. Ngoài ra còn có bát làm từ thân tre. Cây tre còn làm được nhiều thứ khác như máng đựng canh, thìa, muôi...
Thượng tá Nguyễn Hữu Đạc - Giám đốc Bảo tàng Phòng không - Không quân cho biết: “Tái hiện những vật dụng này không khó, đều rất dễ kiếm. Lo nhất là món ca la thầu (củ cải muối) thì cán bộ bảo tàng lại kiếm được ở Cao Bằng, đã qua nửa thế kỷ mà món ca la thầu vẫn giống hệt ngày xưa”. Còn rau rớn, rau tàu bay, cán bộ Bảo tàng Phòng không - Không quân đã lặn lội lên tận các tỉnh miền núi phía Bắc mang về.
Đặc sản chiến trường
Những ai là pháo thủ tại Điện Biên, không thể quên hương vị của món thịt trâu kho riềng. Ông Nguyễn Đình Vượng, cán bộ quản lý quân lương, quân trang và tiểu đoàn bộ, Đoàn 381 vốn là người Hà Nội gốc nên món ăn do ông chế biến được đồng đội đặc biệt ưa chuộng. Ông Vượng giỏi xoay xở với những thứ nguyên liệu có tại chiến trường lúc đó. Thịt trâu phải kho với gừng mới đúng kiểu nhưng anh nuôi và cán bộ hậu cần đi kiếm chỉ được củ riềng, thành ra món đặc sản... phải ra đời: “thịt trâu kho riềng”.
Thịt trâu được thái miếng vuông như bao diêm, ướp với riềng và muối khoảng 30 phút. Quá trình đun sau đó tuyệt đối không đổ nước trực tiếp vào nồi, vì theo ông Vượng, thịt trâu hay bò mà cho nước sẽ mất vị thơm đặc trưng, thậm chí có mùi hôi. Nồi thịt cho lên bếp đảo đều ngấm muối, vị riềng, sau đó đắp bao tải đã được nhúng ướt lên vung, đun nhỏ lửa. Hơi nóng bốc lên gặp nước nhỏ giọt tí tách xuống làm nồi thịt không bị cháy, lại ở mức âm ẩm vừa phải, làm cho miếng thịt nhanh nhừ, không có mùi tanh và dậy mùi thơm ngọt.
Tuy nhiên, chỉ có chiến sĩ pháo binh mới được “chén” thường xuyên món đặc sản chiến trường này, bộ binh hiếm lắm mới có. Lý do pháo binh là “em út”, là lực lượng lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường nên được ưu tiên. Pháo binh chiến đấu trong trận địa, có công sự bảo vệ an toàn, đến bữa anh em ngồi phía dưới, quây quần như mâm cơm, trừ chiến sĩ trực chiến ăn ngay trên mâm pháo. Với bộ binh, do điều kiện chiến đấu dưới giao thông hào, đến bữa ăn cơm thường lui về phía sau ăn. Khi ra chiến đấu mang theo người cơm nắm. Càng về sau, khi chiến dịch càng lúc càng ác liệt, cơm nắm trở thành lương thực chủ đạo.
![]() |
![]() |
|
Mâm cơm với canh rau rớn, ca la thầu và gạo rang |
Thịt trâu kho riềng - món ăn đặc sản chiến trường |
Vay lương thực, trâu, lợn...
Trong giai đoạn chuẩn bị đánh vào tập đoàn cứ điểm, nhiều đơn vị đã được lệnh đi vay, mua lương thực, trâu, lợn tại chỗ.
Ông Đặng Hùng Mạnh, chiến sĩ Đại đội ĐKZ 57, Sư đoàn 308 nhớ lại: “Khi đồng bào Điện Biên đi sơ tán, lúa, vật nuôi, gia súc đều để ngoài cánh đồng Mường Thanh. Cứ để đó thì địch bắt và đốt hết. Tương kế tựu kế, cấp trên giao cho chúng tôi đi vay của dân, cũng là để tránh rơi vào tay giặc”.
Để vay lúa, đêm đến, một trung đội ra lấy thóc, đi theo là một tiểu đội bảo vệ. Lúa thu về tiến hành xay xát ngay. Đội phó cối đẽo chày, đào hố rồi lấy phên quây xung quanh, để dưới đáy hòn đá, dùng nan tre làm cối giã gạo.
Lợn và trâu đều là của dân thả rông ngoài cánh đồng. Để bắt lợn, anh em lấy dây sắn dây kết lại thành lưới, chọn vị trí để đón lõng. Nghệ thuật là phải làm sao bắt không để lợn kêu. Cánh đồng vốn trống trải, có tiếng lợn kêu là địch phát hiện ra, đạn và pháo bắn tới tấp.
Trâu ở Điện Biên có cả trâu trắng và trâu đen, đồng bào Thái Tây Bắc nuôi trâu rất to béo. Giữa cánh đồng, trâu hay quây thành đàn, khi một con đứng dậy là đánh động cả đàn chạy theo nên rất khó bắt. Mà trâu chạy lên rừng thì không biết đằng nào mà lần. Trong đội có nhiều anh em xuất thân từ nông dân, “nịnh” trâu rất giỏi, tiến gần đến làm quen, dắt trâu về. Bộ phận hậu cần sẽ chịu trách nhiệm thịt.
Dù đi bắt lợn hay bắt trâu, mỗi người phải nhận một hướng đi và vừa đuổi trâu, lợn, vừa phải để ý để không lạc vào khu gần đồn địch. Bên cạnh đó, khi lấy bất cứ thứ gì đều phải ghi chép và báo cáo cẩn thận để sau này thanh toán với bà con.
Lương thực cực kỳ quan trọng để nuôi quân, nhưng Bộ chỉ huy chiến dịch cũng chỉ đạo rõ, củ mài, cá sông, suối tuyệt đối không được lấy, đó là những nguồn thức ăn của đồng bào các dân tộc Điện Biên. Phải để khi lòng chảo đã sạch bóng quân thù, đồng bào trở về còn có cái ăn...
Phan Lê Tùng


Bình luận (0)