Anh đi về hướng dãy hàng quán dọc bến tàu vừa lên đèn. Phần lớn chúng được dựng bằng thân dừa nước và có đến hai cửa chính, một hướng ra đường, một vọng ra sông. Phan bước vào quán gần nhất, cũng là nơi đông khách nhất. Chỉ còn một bàn trống trong góc.
Mọi người trong quán ngừng ăn uống, ngừng những câu chuyện đang ầm ĩ, ngước mắt nhìn anh. Họ nhận ra ngay khách lạ. Anh còn nhận ra điều ấy rõ hơn.
Ngồi vào bàn, nhìn lên bảng thực đơn treo trên vách, nó lập tức làm Phan phát ốm vì hầu hết các món đều được chế biến từ thịt thú hoang đất phương Nam. Cá sấu, trăn, rắn, rùa, dơi, và cả chuột đồng.
Chưa biết làm thế nào để có bữa cơm vừa miệng, Phan nghe ai đó thì thầm sau gáy. Ngoảnh lại, anh thấy đầu một con rắn đang nhún nhảy với cái lưỡi dài lè ra thu vào nhanh như chớp. Oái một tiếng, bật dậy như lò xo, đập đầu gối vào mép bàn, Phan làm đổ tung tóe muỗng đũa và các thứ gia vị bày trên bàn xuống sàn.
Tất tật người trong quán đều phá lên cười sung sướng, cười chảy nước mắt nước mũi. Thì ra con rắn đã bị nhốt trong lồng sắt mắt cáo chờ mổ thịt và cái lồng ở cách anh gần cả sải tay. Anh cũng bật cười theo ngượng nghịu, nói lời xin lỗi bà chủ quán. Bà xua tay tỏ ý đừng bận tâm, quay sang bảo cô gái đứng cười khúc khích sau quầy, ra thu dọn mọi thứ.
Cô gái chừng hai mươi tuổi vẫn chưa nín được cười khi ra dọn dẹp ở bàn Phan. Nhưng anh không hề thấy khó chịu với kiểu ứng xử có vẻ trẻ con ấy, nhờ cô chọn giúp món cho anh, nói rõ là anh cần một bữa cơm chắc bụng hơn là bữa nhậu. Thái độ của anh khiến cô cảm thấy thoải mái:
- Em nói chuyện với ông chút được hông?
- Được, em ngồi xuống đây.
- Hổng ngồi đâu, chỉ thích nghe giọng nước Trung của ông thôi.
- Tại sao?
- Nghe mắc cười lắm.
- Vậy sao?
- Dạ.
- Em tên gì?
- Suchia.
- Nhắc lại đi. Em tên gì?
- Su-chia. Tên Khmer mà.
- Em người Khmer?
- Dạ.
- Em là cô gái Khmer đầu tiên mà tôi nói chuyện đó.
- Thiệt hông?
- Thiệt. Em làm ở đây bao lâu rồi?
- Bộ em giống người giúp việc lắm hả?
Suchia trả lời bằng một câu hỏi ngược tinh nghịch. Phan xin lỗi cô rồi hỏi lại:
- Vậy em con gái bà chủ à?
-Bả người Việt mà, bả là khách hàng của em. Em bán cho bả các thứ đặc sản.
Rồi chỉ vào con rắn vừa khiến Phan chết khiếp, cô khúc khích cười nói của em đó. Phan cũng không nhịn được cười.
- Ba em đi săn nó, còn em đi giao hàng. Hiểu hông?
Gật đầu với cô nhưng tâm trí Phan lại đang ở đâu đó ngoài câu chuyện. Lối vuốt đuôi cuối câu kiểu Nam bộ của Suchia khiến anh chạnh lòng nhớ đến Lai.
Anh đã từng no nê những trò chuyện ngọt ngào cung cách Nam bộ trước khi Lai bỗng biến mất khỏi đời anh.
- Ông mới vào Năm Căn lần đầu hả?
- Phải.
- Đi du lịch hay đi công tác?
- Đi việc riêng.
- Vậy hả? Em xin lỗi.
- Không có gì. Chỉ tại em quan tâm thôi mà.
Bữa cơm đã dọn lên. Suchia mỉm cười với Phan rồi quay đi.
- Ông ngon miệng nghen.
- Chờ chút. Em chỉ giùm tôi khách sạn gần nhất…
Suchia chỉ tay qua cửa sổ nhà hàng, hỏi anh có thấy cái khách sạn cách chừng vài trăm mét không, Phan gật đầu, rồi bỗng sực nhớ chuyện còn quan trọng hơn:
- Em có biết thôn An Lạc không?
- An Lạc hả?
- Phải. Mai tôi có việc phải đi An Lạc.
- Em biết. Nhưng từ đây vào trỏng xa lắm, em cũng chưa đi lần nào.
- Vậy là tôi gặp khó rồi.
Cô gái có vẻ ái ngại khi nghe giọng nói đầy cam chịu của người đàn ông “nước Trung”. Nhưng cô vẫn chào anh để chia tay.
***
Chừng một tiếng sau, Phan đã yên ổn trong khách sạn. Cố dành sức cho chuyến đi ngày hôm sau, anh đi ngủ sớm, trước 9 giờ. Vậy mà, khoảng nửa đêm anh bị đánh thức đột ngột bởi tiếng gõ cửa nặng tay.
Thấy anh vừa dụi mắt vừa mở cửa, tay nhân viên lễ tân nhe răng cười:
- Xin lỗi, anh Hai ngủ rồi hả?
- Có gì không?
- Dạ, tưởng anh Hai cần, thì đưa em út lên…
- Cám ơn. Đêm nay thì không.
***
Điều bất ngờ dành cho Phan ở sảnh khách sạn ngay sáng hôm sau.
Từ cầu thang, anh đã trông thấy Suchia đang ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ đối diện quầy lễ tân, đung đưa đôi chân dài. Trông cô xinh hơn, ấn tượng hẳn ra trong áo váy truyền thống Khmer.
- Chào Suchia.
- Chào...
Suchia đáp lại, bối rối đứng lên, hai bàn tay bối rối xoắn vào nhau trước ngực, như không phải cô gái hồn nhiên tinh nghịch Phan đã gặp tối qua.
- Em đang nhập hàng cho khách sạn?
- Dạ không... Em chờ ông.
- Chờ tôi?
Phan ngạc nhiên về điều nghe được từ Suchia và càng ngạc nhiên khi bắt gặp mình đang lúng túng. Nhìn quanh, rồi anh lên tiếng:
- Em ăn sáng nhé?
- Dạ, nhưng… ăn sáng trên thuyền, với ba em.
- Sao? Ba em?
- Dạ, ba em đang chờ.
- Ủa…?
- Tại tối qua em kể chuyện của ông cho ba em nghe. Ổng nghĩ là ổng phải đưa ông đi An Lạc.
- Vậy sao…
- Dạ. Vậy mình đi ông há?
- Em và ba em tốt quá.
- Giúp đỡ nhau là chuyện thường mà ông.
Phan trả lời cô bằng nụ cười vu vơ.
Chừng mươi phút sau hai người đã ra đến bến. Cha của Suchia, một ông già Khmer gầy, đen trũi, đưa tay đỡ khách lên thuyền. Phan nói cám ơn.
- Hổng có gì. Tôi nghe nói anh đi An Lạc. Mà có tàu khách nào từ đây vào trỏng đâu.
- Thật may mắn quá mới gặp được Suchia và ông. Tôi tên Phan.
- Kêu tui là Ba Trăn. Ông muốn đi về trong ngày thì nổ máy luôn. Có bánh mì xíu mại, cả cà phê nữa. Vừa đi vừa ăn.
Bến cảng Năm Căn chẳng mấy chốc hút khỏi tầm nhìn. Chiếc thuyền máy như lọt thỏm giữa những cánh rừng đước dài vô tận, không ngừng mở ra khép lại sau mỗi khúc quanh sông.
Ông Ba Trăn cầm lái, Suchia ngồi cạnh Phan trước mũi thuyền. Nhìn thấy hai bàn tay anh bíu chặt mạn thuyền, cô gái tủm tỉm:
- Ông mới đi lần đầu, đúng hông?
Phan gật đầu. Gió sông không chỉ thổi bạt lời cô gái mà còn làm bung hết mái tóc đen dày của cô. Anh hít sâu không khí trong lành đất trời cuối Việt, lẫn cả mùi tóc cô gái Khmer, một mùi hương trinh trắng.
Từ phía đuôi thuyền ông Ba Trăn lên tiếng:
- Này, sao anh lại vào tận cái xứ An Lạc xa xôi này dậy?
- Tôi tìm người nhà.
- Lóng rày cũng nhiều người Trung vào đây sống, nhưng đâu thấy ai tuốt tới An Lạc…
- Người tôi đi tìm là dân An Lạc chính cống.
- Bạn hả?
- Không. Vợ.
- Vợ?
- Vợ!
Gió làm méo âm dạng. Họ phải nói to, rõ từng từ mới nghe được.
Sau đó là sự im lặng. Suchia và cả cha cô đều bối rối thấy rõ khi nghe Phan lặn lội đi tìm vợ nơi tận cùng đất nước, nơi có cái tên mà theo nghĩa nhà Phật, hàm ý là chốn bình yên vui vẻ, An Lạc. Bởi vì, nét mặt và nhất là giọng nói của anh chất chứa đầy nỗi đau buồn.
Tiếng nổ của chiếc thuyền máy nghe đanh hơn, xuyên vào sự tĩnh lặng của sông nước, rừng cây và cả con người.
Trong khung cảnh hoang vắng, Phan cảm thấy nhu cầu mở lòng ra với Suchia và cha cô, những con người mới quen tốt bụng đã quan tâm tới mình.
Anh kể họ nghe chuyện. Trước năm 1975, anh vẫn hay đến các vũ trường, tiếp cận các sĩ quan, mật vụ để thu thập thông tin cho tổ chức biệt động. Ở đó anh gặp và quen Lai, vũ nữ trẻ đẹp nhất vũ trường.
Năm ấy Lai mới mười bảy, phải khai thêm tuổi để đi làm. Khi nhóm của anh bị lộ, căn hộ thuê của Lai là nơi anh ẩn náu trước khi tìm được đường dây “nhảy núi”. Sau 1975, anh về lại thành phố và quyết định cưới Lai.
Tình yêu và cuộc hôn nhân lãng mạn giữa một cán bộ và một vũ nữ phải đương đầu với vô vàn những đàm tiếu và phê phán. Người ta có thể tin một “cô gái sông Hương” trong thơ Tố Hữu nhưng chẳng ai thèm tin một cô Lai sau 1975 vẫn “thơm như hương nhụy hoa lài/sạch như nước suối ban mai giữa rừng” cho dù chẳng ai nói ra lời.
Bởi vậy, chỉ mấy tháng sau lễ thành hôn, Lai lặng lẽ bỏ Phan đi biệt. Cô muốn “giải phóng” chồng khỏi quá khứ ô nhục của mình.
Sau bao nhiêu năm dày công tìm kiếm, Phan mới dò ra quê quán thật của Lai, nhen nhúm trong lòng một tia hy vọng mong manh…
***
Khi câu chuyện kết thúc, cô gái Khmer lặng lẽ lau nước mắt rồi dịu dàng cầm lấy bàn tay Phan trong đôi tay mềm mại của mình. Còn ông Ba Trăn cứ lắc đầu, nhắc đi nhắc lại hai tiếng tội nghiệp, tội nghiệp...
Có lẽ, muốn xua bớt bầu không khí nặng nề, ông đã kể Phan nghe câu chuyện khác…
Hồi đầu năm, một phụ nữ Mỹ đến Năm Căn tìm chồng, sĩ quan Mỹ được báo mất tích trong khi làm nhiệm vụ vào cuối tháng 2.1973, thời gian lính Mỹ rời Việt Nam.
Tuy nhiên, năm ngoái, bà nhận được thông tin thật khó tin. Có vài cựu chiến binh Mỹ, đồng đội cũ của chồng bà, đi thăm chiến trường xưa tại một rừng đước hoang vắng ở Năm Căn, và rồi, từ một khoảng cách chừng năm mươi mét, họ bất ngờ trông thấy một người da trắng. Mặc dù người này vội chạy vào rừng rậm khi trông thấy bóng người, họ tin đó là bạn của họ, người đã được cho là mất tích.
Đó là lý do dẫn bà đến với Năm Căn. Và ông Ba Trăn được thuê làm người dẫn đường suốt thời gian người phụ nữ Mỹ lặn lội tìm chồng trong những cánh rừng đước, rừng mắm.
Phan chỉ mong được nghe một câu chuyện có hậu. Nhưng ông Ba Trăn đã dẫn anh đến một kết cục buồn.
Cuộc tìm kiếm thất bại. Dân địa phương xác nhận trước đây thỉnh thoảng họ trông thấy một người da trắng sống lẩn lút trong rừng, nhưng chuyện đó đã không còn xảy ra nữa. Vì vậy, cho đến bây giờ, không ai có thể biết vì sao sĩ quan Mỹ kia đã quyết định ở lại chiến trường cũ. Ông đã sống như thế nào suốt thời gian đó? Và thậm chí, không ai có thể biết chắc rằng ông ta còn sống hay đã chết.
Câu chuyện sau này sẽ ám ảnh Phan mãi. Còn ngay lúc đó, anh chỉ có cảm giác nó là điềm chẳng lành cho cuộc tìm kiếm của riêng anh.
Đúng như dự cảm, cuối hành trình anh đã tìm được nhà của Lai nằm ven bờ một kênh đào hoang vắng. Nhưng là một ngôi nhà trống không.
Phan muốn thu nhặt vài thông tin về Lai qua người phụ nữ Khmer đang ngồi dưới mái hiên nhà bên cạnh. Nhưng dường như bà rất khó để hiểu được giọng nói miền Trung. Vì vậy ông Ba Trăn phải hỏi bà bằng tiếng Khmer.
Bà ta đáp lại với thái độ nhiệt tình. Suchia thông dịch cho Phan rằng, năm ngoái Lai có trở về nhà chôn cất cha cô, rồi sau đó cô lại bỏ đi biệt...
***
Từ cửa sổ quán nhậu Phan có thể nhìn thấy một phần bến tàu. Lúc này trông nó hoang lạnh trong thứ ánh sáng trắng xanh dưới bóng điện cao áp.
Tàu thuyền lớn nhỏ thả neo san sát bờ sông, dập dềnh trên mặt sóng lăn tăn. Anh có thể nghe rõ âm thanh các mạn tàu miết vào nhau, như tiếng nghiến răng của người mê ngủ. Ngoài xa, lác đác mấy cụm lục bình theo con nước thủy triều lặng lẽ ngược dòng.
Một tia chớp dài bất ngờ xuất hiện, ngoằn ngoèo rạch đôi bầu trời đen. Ngay sau đó là tiếng sấm rền chạy từ ngoài biển vào đất liền. Ông Ba Trăn giật mình tỉnh cơn gà gật, dụi mắt nhìn Phan, giọng nhừa nhựa:
- Xị nữa?
- Nữa. Phan đáp, nhìn đồng hồ rồi nhìn bà chủ ngủ khoèo trên băng ghế dài trong góc quán - Nhưng hai giờ sáng rồi, về để cho bả còn đóng cửa.
- Vậy thì về khách sạn uống tiếp.
Anh móc ví trả tiền nhưng ông Ba Trăn đã vẫy tay nói bữa rượu này là của ông và ở đây không ai lại tiền nong liền tù tì như vậy. Chừng mười lăm phút sau, hai người trở vào khách sạn. Tay nhân viên lễ tân đón nhận yêu cầu một bữa rượu của Phan với câu nói đầu môi, dạ có ngay anh hai. Rồi hắn lanh lợi dọn bàn ngay ở sảnh lễ tân.
Đột nhiên Phan thấy đau nhói ở đầu gối phải và dường như anh nghe giọng Lai văng vẳng đâu đây, anh là phong vũ biểu của em...
Đó là một “bí mật” giữa hai người. Hôm chạy trốn cảnh sát, anh nhảy qua cửa sổ tầng hai khách sạn, vỡ đầu gối phải, may sao Lai tình cờ đi Honda đến đúng lúc, rước kịp anh trước khi anh bị tóm. Từ dạo đó, hễ cái đầu gối anh lên cơn đau là y như rằng sắp trở trời.
- Đêm nay sẽ mưa.
Phan nói với ông Ba Trăn biết về “dự báo” của mình nhưng người đàn ông Khmer không còn bắt kịp ý nghĩa, đáp:
- Ừ, đêm nay không say không dề!
Chừng nửa giờ sau dự báo của Phan, một trận mưa giông ầm ĩ đổ xuống. Tay nhân viên lễ tân liếc mắt lên đồng hồ treo tường, rồi đến bên Phan, thì thầm:
- Tối nay em “thiết kế” cho anh Hai nghen. Ô kê?
Cũng như Ba Trăn, Phan không còn làm chủ được bản thân. Anh gật gù với cái đầu rỗng, nói tất nhiên rồi, tại sao không. Gã kia chuyện trò qua điện thoại với ai đó, rồi hắn đi lên tầng trên với chùm chìa khóa trong tay, biến mất ở đầu cầu thang. Lát sau hắn trở lại, nháy mắt ranh mãnh với Phan:
- Sẵn sàng rồi, anh Hai!
Phan nói OK và giúi vào tay hắn mấy tờ giấy bạc.
Cơn giông càng lúc càng mạnh. Và tiếng mưa kéo ông Ba Trăn tỉnh lại:
- Tôi phải về... Con Suchia đang chờ.
Rồi ông quay sang nhân viên lễ tân:
- Tao mượn cái dù.
Phan đứng lên:
- Để tôi tiễn anh.
- Khỏi.
Nhưng Phan vẫn theo ông Ba Trăn chệnh choạng bước ra hiên khách sạn. Người đàn ông Khmer dừng lại một lát, ngẩng mặt hít hít bụi mưa cho tỉnh táo, vỗ mấy cái thân tình lên vai Phan, rồi bung dù bước vào màn mưa.
Phan quay lại tì tì uống cạn chai rượu rồi mới lên phòng anh ở tầng hai bằng những bước đi cà nhắc. Anh muốn say tới bến. Như vậy mới giúp anh ngủ vùi khi vục đầu vào gối.
Nhưng anh gần như tỉnh hẳn khi mở cửa phòng.
Trong ánh sáng vàng dịu của đèn ngủ, một người đàn bà mặc xường xám bó sát thân đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, ngoảnh nhìn mưa vỗ từng cơn vào kính cửa sổ. Tiếng cửa mở ra đóng lại không đủ đưa người đàn bà rời khỏi cơn trầm tưởng. Lúc ấy Phan mới nhớ ra điều tay lễ tân vừa thì thầm ban nãy…
Sau một thoáng ngập ngừng, Phan hắng giọng. Người đàn bà uể oải ngoảnh về phía có âm thanh. Cô giật nảy mình, đưa cả hai tay bịt chặt miệng, chặn tiếng kêu lại trong người.
Phan và Lai nhận ra nhau cùng lúc.
Phan đứng sững, kinh ngạc tự hỏi làm sao anh lại có thể như thản nhiên đến vậy. Cuộc đoàn tụ bẽ bàng đến nỗi cảm xúc của cả đôi vợ chồng đều trở nên tro lạnh…
Cuối cùng, Phan lại hắng giọng, chậm rãi đi về phía giường ngủ bằng những bước chân cà nhắc.
- Đầu gối vẫn đau, phải hông?
Câu hỏi nghe giống tiếng thở dài hơn…
- Ừ, tại trở trời...
***
Sáng hôm sau, tiếng mưa quật vào cửa kính đánh thức Phan.
Ngay tức thì anh nhận ra Lai không còn ở trong vòng tay anh, cũng không cả ở trong phòng. Dấu hình Lai nằm còn lõm trên mặt ra giường khiến anh biết chắc rằng những gì đã xảy ra đêm qua là sự thật.
Mặc vội áo quần, Phan chạy cà nhắc xuống lễ tân khách sạn.
Lai không có ở đó. Chỉ có Suchia với chiếc dù đỏ ướt sũng trên tay.
- Em tới trả dù…
Suchia bẽn lẽn lên tiếng. Nhưng Phan không còn lòng dạ nào đón nhận tâm tình cô gái Khmer.
Anh lao ra màn mưa, tập tễnh chạy về phía bến tàu với hy vọng đuổi kịp Lai. Suchia tất tả chạy theo, cố giương chiếc dù đỏ che mưa cho anh.
Chiếc váy Khmer ướt nhẹp dính bết vào đùi cô, bay phần phật về phía sau.
Tất nhiên Suchia không bao giờ được biết chuyện gì đã xảy ra với Phan tối hôm trước.
…Ngay cả sau khi cô đã trở thành vợ anh.
Truyện ngắn của Vĩnh Quyền
Bình luận (0)