Dù viết về điều gì thơ Đặng Nguyệt Anh vẫn mang nét dịu dàng, nữ tính: da diết nỗi đời, nỗi người, nỗi nhân tình thế thái. Thơ chị là tiếng lòng thành thật giúp cho bạn đọc soi mình qua những triết lý thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân ái. Ta thầm thì với mênh mông/ Giữa không là đất/ giữa không là trời.../ Vì em thánh thiện/ em ơi/ Nhân gian hát khúc:/ Con người yêu nhau (Vì em thánh thiện).
Thơ Đặng Nguyệt Anh thể hiện cái tôi mang nhiều nỗi niềm hoài niệm. Thế giới hoài niệm mà Đặng Nguyệt Anh nhắc đến trong thơ là thế giới của những gì đã qua, ở đó có cả niềm vui - nỗi buồn, hạnh phúc lẫn khổ đau.
Nam Định là đất mẹ có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến hành trình sống và sáng tạo của nhà thơ. Dòng sông Ninh thơ mộng, trữ tình mang đậm hồn cốt quê hương Nam Định trở thành mạch nguồn nuôi dưỡng, “nỗi niềm thương nhớ” cứ chập chờn, ẩn hiện trong tiềm thức Đặng Nguyệt Anh. Dù ở đâu, dòng sông quê vẫn cứ miệt mài chảy, tưới tắm, làm dịu đi những “cơn buồn” nơi đất khách. Ngày đi xa/ ta gửi lại nửa vầng trăng dưới đáy sông Ninh/ gửi lại nửa đời con gái/ gửi lại dấu chân ta thơ dại/ trên bãi cói phù sa/ con cáy, con còng chui vào làm tổ// Lớn lên/ ta nghe kể về sông Ninh như huyền sử/ năm tháng thương đau/ nước sông hòa nước mắt/ sông mở lòng che chở những đứa con.
Đặng Nguyệt Anh bộc lộ tình cảm dạt dào, sâu lắng của mình đối với quê hương. Nhà thơ cũng dành tình cảm thiêng liêng nhất đối với những người thân yêu, ruột thịt. Mẹ là người mà thi sĩ hay nhắc đến. Cuộc đời chính mình nếm trải, có hình bóng của mẹ. Sự tảo tần, chắt chiu, dồn hết tình thương cho chồng cho con của mẹ khiến nhà thơ yêu thương mẹ nhiều hơn gấp bội. Ngày Đặng Nguyệt Anh quyết định rời bục giảng, từ biệt quê nhà vào Nam để gần và tiện chăm sóc cho chồng đang đau nặng (chồng chị lúc đó công tác ở căn cứ Trung ương Cục miền Nam) là một quyết định táo bạo. Đêm ở Trường Sơn, lòng chị ngổn ngang trăm mối. Dù nhớ quê, nhớ mẹ, dù thực tại khó khăn trăm mối nhưng không làm chị chùn bước, chị vẫn hướng về những điều tốt đẹp, sẽ cùng đồng đội hành quân trên những cung đường Trường Sơn... Sâu thẳm đêm Trường Sơn/ ... nhớ về mẹ quê nhà/ nhìn ánh lửa gần/ nghĩ đến chiến trường xa/ lòng rạo rực mong trời mau sáng/ để ngày mai/ đồng đội cùng con/ lại hành quân/ Đêm Trường Sơn mênh mông...
Trong Thơ chọn của Đặng Nguyệt Anh, nhà thơ dành tình cảm rất đặc biệt cho “anh” - người đàn ông mà chị sẵn sàng đánh đổi cả thanh xuân, "người tình" mà chị tự nguyện hy sinh cả đời mình. Phải thừa nhận rằng hiếm có mối tình nào đầy thi vị và có vụ mùa dài “bội thu” như mối tình của nữ thi sĩ họ Đặng này. Không phải người phụ nữ nào cũng “gan lì” và đủ can đảm để thân chinh vượt Trường Sơn theo tiếng gọi của tình yêu như Đặng Nguyệt Anh. Có lẽ “anh” sẽ biết, sẽ hiểu, sẽ yêu thương, sẽ luôn đồng hành cùng chị suốt cuộc hành trình ở cõi nhân gian này. Bởi chị là một người đàn bà rất tâm lý, rất “hoàn hảo” với “anh”: Nếu anh biết được.../ chiều nay/ gió từ đâu thổi đến gầy cành mai/ Một đời gió có vì ai/ xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn!...// Suốt đời/ sóng cứ xôn xao/ ngàn năm/ sóng vẫn khát khao gọi bờ// Em nâng niu những ước mơ/ nếu anh biết được là thơ bồi hồi (Nếu anh biết được...)
Đọc thơ Đặng Nguyệt Anh, người đọc hình dung ra thế giới tâm hồn của chị. Nhà thơ sống đến tận cùng mọi cung bậc cảm xúc, tâm trạng. Với trái tim nhạy cảm, tràn đầy yêu thương, Đặng Nguyệt Anh không chỉ sống cho riêng mình mà chị luôn dõi theo, luôn quan tâm đến người khác, cảm thông và san sẻ nỗi lòng với họ. Viết cho Yến - người bạn có hoàn cảnh bất hạnh: góa chồng, nuôi năm con thơ với hai lần đò dang dở... Lời thơ như mũi kim châm và nghe có tiếng nấc nghẹn. Tiếng nấc nghẹn vì xót xa và cả sự cảm thông mà nhà thơ dành cho người cùng giới với mình. Đêm nay xin giun, dế đừng kêu nữa/ trận mưa rào đừng trút xuống nhà em/ gió đông bấc đừng rít hoài bên cửa/ kẻo khuya rồi... đôi mắt lại cay thêm! Với Đặng Nguyệt Anh, người phụ nữ phần lớn chịu nhiều thua thiệt hơn so với cánh đàn ông và nhất là trong con đường tình ái, dù có giỏi giang, đức hạnh nhưng chưa chắc gì vượt qua được “phận mỏng nữ nhi”: Xin lau lách đừng phủ đường nhan sắc/ Bão giông ơi đừng lấp lối nhu mì/ Và đức hạnh: thiên đường hay địa ngục? Cứu em nào qua phận mỏng nữ nhi.
Thơ Đặng Nguyệt Anh là tiếng thơ của người phụ nữ đã đi qua những năm tháng thăng trầm của đất nước. Bản thân chị đã nếm trải nhiều đắng chát hơn là những dư vị ngọt ngào. Đọc bài Tết tha phương, lòng nhói đau khi hình ảnh người con xa xứ vào dịp Tết đến xuân về mà không được trở về quê cũ. Có nhiều lý do, nhưng dù lý do gì cũng đều làm cho lòng người xốn xang và đau đáu với tâm trạng của “kẻ thiếu quê hương”: Ta thương kẻ tha phương/ hai mươi năm không có Tết/ đốt nén nhang trước bàn thờ tổ tiên/ Ta thương Cha cơn đau/ con gái không ở bên/ để dâng Người chén thuốc/ Ta thương Mẹ/ tuổi tám mươi mòn mỏi/ hai mươi năm chờ đợi/ một đôi lần gặp con.
Bên cạnh cái tôi đời tư - thế sự thì cái tôi trữ tình chiêm nghiệm - triết lý cũng được thể hiện khá rõ nét trong Thơ chọn của Đặng Nguyệt Anh. Bởi hơn ai hết, nhà thơ đã từng chứng kiến và nếm trải bao cảnh đời dâu bể, bao biến cố thời đại dội về. Vì thế, bức tranh đời sống hiện lên trong thơ với nhiều nhức nhối, bất an - điều mà những nhà thơ trẻ hiện nay dường như hãy còn ít để tâm trăn trở, và vì vậy đó là nỗi niềm đáng trân quý: Bây giờ đồng bạc khôn/ con vẫn dại/ Đồng bạc đảo điên/ lòng người lún mãi/ Chỉ có đồng bạc mới/ mẹ mừng tuổi ngày xưa/ là nguyên vẹn đến bây giờ (Tết tha phương).
Bình luận (0)