Đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền không đúng với bản chất nguyên âm

Những đề xuất cải tiến nguyên âm của PGS.TS Bùi Hiền không có cơ sở khoa học, không phản ánh đúng bản chất ngữ âm của các nguyên âm.

Những đề xuất của PGS. Bùi Hiền phần 2 liên quan đến cách viết nguyên âm. Trong đó vấn đề thứ nhất liên quan đến cách viết nguyên âm đôi. Theo ông Bùi Hiền, để tuân thủ triệt để nguyên tắc “1 âm – 1 chữ, 1 chữ - 1 âm”, phải trả lại cho các âm ô, ơ, ê về đúng vị trí của nó và chữ được trở về đảm nhiệm biểu đạt một âm vị /a/ của mình như các chữ cái khác trong tiếng Việt”.  

Tiếng Việt có 3 nguyên âm đôi ia (iê), ưa (ươ), ua (uô). Trên chữ quốc ngữ, mỗi nguyên âm đôi có 2 cách viết: viết bằng tổ hợp con chữ có yếu tố thứ hai là a, khi không có con chữ chỉ âm cuối như: tia, tưa, tua; viết bằng iê, ươ, uô khi đứng sau có con chữ chỉ âm cuối như: tiếc, tươm, tuôn. Cách viết trên thể hiện quan niệm của những người làm chữ quốc ngữ, có tính hợp lý về ngữ âm học và sư phạm.

Ông Bùi Hiền đề nghị trong mọi trường hợp, yếu tố thứ hai đều viết bằng ê, ví dụ tiê, tiết; tuô, tuôn; tươ, tươm.  Phân tích về ngữ âm học (âm học và cách phát âm) chỉ ra rằng các nguyên âm đôi trên có yếu tố thứ hai không phải là ê, ơ, ô như quan niệm của ông Bùi Hiền, mà là nguyên âm ơ. Do vậy, đề xuất của ông khôngđúng với bản chất của các nguyên âm đôi trên, và chưa đảm bảo nguyên tắc “1 âm -1 chữ, 1 chữ-1 âm”.  

Ngoài ra, nếu tia, tua, tưa viết thành tiê, tuô, tươ sẽ không tiết kiệm thời gian (thêm dấu phụ khi viết, gỗ 2 nhịp khi đánh máy vi tính, không tiết kiệm không gian (giấy) khi viết, đánh máy- điều mà ông luôn nhấn mạnh.

Vấn đề thứ hai liên quan chủ yếu đến con chữ Y và con chữ I. Theo ông Bùi Hiền, trong tiếng Việt “tất cả các nguyên âm đều tạo thành những cặp đôi dài ><ngắn, nên trong chính tả hiện nay cách viết các nguyên âm ngắn không giống nhau và không thống nhất”.  Theo ông, Y là nguyên âm dài còn I là nguyên âm ngắn.

Những người nghiên cứu ngữ âm học tiếng Việt trong nước và ngoài nước từ trước đến nay, không ai có quan niệm như ông Bùi Hiền, rằng tất cả các nguyên âm đều tạo thành những cặp đôi dài ><ngắn”. Sự thực là, chữ  YI là hai con chữ khác nhau (tên gọi Y “dài”, I  “ngắn” là căn cứ vào hình chữ), cùng phản ánh âm vị /i/ (không có đối lập trường độ dài >< ngắn).  Hiện nay, có thể viết “lưỡng khả”: Mỹ/ Mĩ; Lý/Lí, Sỹ/Sĩ.  Cần phải có quy chuẩn để viết Y/I: nhất loạt hay phân biệt (ví dụ, từ Hán Việt viết Y). Cách viết phân biệt y >< i, để phản ánh 2 nguyên âm có trường độ dài/ngắn dài khác nhau- như ý kiến của ông Bùi Hiền là không đúng.

Các đề xuất của PGS.TS Bùi Hiền thể hiện rõ ông không phân biệt các khái niệm: âmchữ (âm vị /i/ và chữ Y, I), nguyên âm đơn (nguyên âm a, ê, ô)yếu tố của nguyên âm đôi (a, ê, ô, ơ).     

GS-TS Nguyễn Văn Lợi, Nguyên Phó viện trưởng Viện Ngôn ngữ học (Ảnh: NVCC)

Tóm lại, cũng như những đề xuất cải tiến cách viết các phụ âm, những đề xuất cải tiến cách viết nguyên âm của PGS.TS Bùi Hiền không có cơ sở khoa học: không phản ánh đúng bản chất ngữ âm của các nguyên âm. Việc lựa chọn ký hiệu không hệ thống, tùy tiện, vi phạm nguyên tắc sư phạm (nguyên tắc “dễ học, dễ nhớ”), gây khó khăn cho người học (nhất là trẻ em).

Như ý kiến nhiều người, các đề xuất của ông Bùi Hiền khó áp dụng thực tiễn do tạo nên sự đứt gãy văn hóa. Bên cạnh đó là tốn kém kinh tế do phải học chữ quốc ngữ “mới”, còn thế hệ sau lại phải học chữ quốc ngữ hiện hành để đọc các văn bản, tác phẩm đã có; phải in lại hàng triệu tác phẩm kinh điển về văn học, chính trị, giáo dục…  

Ngoài ra, chữ cải tiến của PGS.TS Bùi Hiền sẽ gây khó khăn cho người dân tộc thiểu số học chữ quốc ngữ. Nhiều dân tộc thiểu số đã có chữ viết dựa trên tự dạng La Tinh, có cách ghi phụ âm, nguyên âm gần với cách ghi chữ quốc ngữ. Sự gần gũi chữ dân tộc thiểu số và chữ quốc ngữ giúp người dân tộc thiểu số sau khi học chữ của mình, dễ dàng chuyển sang học chữ quốc ngữ. Chữ cải tiến của ông Bùi Hiền tạo nên sự “đứt gãy” từ chữ dân tộc thiểu số sang chữ quốc ngữ.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.