Nghĩ, “nghèo ăn bánh bèo lấy no”. Cô bạn là nhà buôn phát đạt, đi đông đi tây. Bao nhiêu món ngon đều nếm qua, hà cớ gì mà đòi bánh bèo với cái giá 2.000 đồng một chén? Rồi suy diễn, hay là nó... giả đò để né bữa tiệc đãi bạn bè mà nó có “bổn phận” phải làm. Nhưng bụng bảo dạ, mình cũng là tay “cuồng” bánh bèo mà. Từ lúc tóc còn để chỏm cho chí tận giờ đầu lốm đốm muối tiêu, cứ đôi ba hôm lại bánh bèo một bữa mà không thấy ớn. Nhứt định bánh bèo là một quyền lực mềm. Nếu không thì tại sao mười người về thăm quê thì hết chín người chân vừa chạm đất làng hôm trước, hôm sau đã hướng tâm tình về những chén bánh bèo nóng hổi.
Bánh bèo còn có tên gọi khác là bánh chén. Nếu vẽ bản đồ phân bố bánh bèo, tôi tin hình ảnh những chén bánh bèo sẽ ngoằn ngoèo khắp nước. Đâu đâu cũng có bánh bèo nhưng hương vị thì mỗi nơi mỗi khác, tùy theo chất lượng gạo và phụ gia đi kèm. Còn cái “phom” thì hầu như chỉ có hai dạng: bánh bèo đĩa (hấp trong chén rồi bày ra đĩa), và bánh bèo chén (để nguyên trong chén).
Ở Quảng Ngãi quê tôi, chén bánh bèo giờ “thanh nhã” hơn vì nó nhỏ nhắn, cầm gọn trên tay. Chứ như hồi xưa, chén nào chén nấy to “bà cố”. Người quê chỉ cần “chén hai chén” là coi như đổ bê tông, xách cuốc ra đồng “chiến đấu” tới tận trưa. Còn lũ học trò mũi dãi thò lò như tôi, chỉ một chén là no nê, đứng dậy quệt môi liếm mép rồi ôm vở tới trường.
Cái cách ngồi ăn bánh bèo ngày đó cũng... hoàn cảnh lắm. Người bán hay đặt gánh ở ngã ba, ngã tư làng, cạnh gốc gòn, gốc đa. Người ăn già trẻ lớn bé gì cũng “bình đẳng” một kiểu ngồi chồm hổm. Nước chan bánh cũng rất “dân chủ” vì mắm cái, mắm ruốc, mắm trong, xì dầu, nước tương bày trên mẹt, ai muốn chan nước gì thì tùy. Thêm cái “tự động” nữa, vì khi chị chủ phục vụ không kịp thì khách tự tay chọn chén, xoa dầu hành hẹ, tự lấy siêu (thanh tre mỏng) xén bánh, rắc đậu phộng.
|
Mấy chục năm rồi tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chị Hồng với đôi tay thoăn thoắt, bốc cái gì trúng cái đó khi bán bánh cho khách. Người làng hay kêu chị là Hồng “bánh bèo” với hai lý do: Một là chị bán bánh bèo ngon có tiếng. Hai là cặp má của chị phúng phính, rất giống hai... chén bánh bèo.
Giờ thì bánh bèo chuyển sang một “phân khúc” khác so với bánh bèo chan mắm “tiền nhiệm”. Nhiều quán xá có bảng hiệu với bàn ghế hẳn hoi. Chủng loại gạo khá phong phú nên người đổ bánh lựa chọn loại gạo có lượng tinh bột chuẩn nhất và mùi hương vương vấn nhất để cho ra loại bánh bèo đạt bốn tiêu chí: dẻo, dai, mềm, thơm.
Còn nước chan bánh thì ngon một cách... hút hồn bởi được làm từ thịt heo nạc và tôm tươi. Hai thứ “chủ lực” này làm nên thứ nước chan bánh thần thánh. Nếu bánh bèo đạt bốn tiêu chí thì nước chan bánh cũng đạt bốn tiêu chuẩn: béo, ngọt, mặn, cay. Tưởng tượng đi! Bánh dẻo thơm cỡ đó, nước chan bánh đậm đà cỡ đó, lại thêm một lớp mỏng dầu phi với lá hành lá hẹ nữa thì chỉ có ngon hết nấc luôn.
Người bình dân ở quê, khi có gì vui, người ta hay đưa cả nhà ra quán bánh bèo. Chén đã đời cũng chưa hết trăm ngàn. Có những nhóm bạn tiệc tùng ở nhà hàng, trước khi chia tay cũng rủ nhau về với... bánh bèo. Thấy chưa? Vừa ấm bụng, vừa ấm lòng, vừa ngon, vừa rẻ thì bánh bèo quê kiểng là một lựa chọn, dẫu không dám nói là “thông minh” nhưng không ai dám bảo là thiếu sáng suốt?
Bình luận (0)