1. Zootopia (Walt Disney)
|
Năm nay, hãng Walt Disney “trúng mánh” khi có đến 4 tác phẩm đạt mức doanh thu tỉ đô, trong đó Zootopia đứng hạng ba với 1,024 tỉ USD. Zootopia còn cho thấy độ “khủng” của mình khi gặt hái về 10 giải thưởng điện ảnh lớn nhỏ trên thế giới, trong đó có hai giải thưởng danh giá là Quả cầu vàng và Critics’ Choice.
Bộ phim được giới chuyên môn đánh giá cao về thiết kế đồ họa đẹp, mượt mà, bắt mắt, đồng thời phim sở hữu một kịch bản khéo léo, đan cài nhiều tình tiết bất ngờ, tính cách nhân vật vô cùng đa dạng, phức tạp… Trên IMDb, phim được chấm 8,1/10.
Đây là phim có số lượng nhân vật đáng nể nhất trong 5 phim, đủ độ hài hước để khiến khán giả cười té ghế. Một ưu điểm của phim đó là làm sống lại cái uy vũ của thế giới ngầm mafia thông qua nhân vật “Bố già” Mr. Big - ngài chuột bất khả xâm phạm mà không gượng ép, ngược lại vô cùng tự nhiên, tạo nên sự đa dạng của các tầng lớp xã hội trong vùng đất toàn động vật.
Không gian phim dù được mở rất rộng song không vì thế mà làm giảm đi tính điển hình của các nhân vật. Mỗi một nhân vật trong phim là một tấm gương để chúng ta nhìn vào, tự soi rọi chính mình. Cùng với Moana, Zootopia là phim thuần về 3D chứ không có sự kết hợp kiểu làm phim 3D với stop-motion như Kubo and the Two Strings.
2. Moana (Walt Disney)
|
“Bom tấn” Moana cũng chứng tỏ mình không thua kém bất kỳ một đối thủ nào trong cuộc đua đến tượng vàng năm nay. Moana không chỉ thành công về mặt thương mại khi thu về hơn 450 triệu USD, mà còn được đánh giá rất tích cực về mặt chất lượng phim.
Phim được tán tụng hết lời không thua kém gì hai “anh lớn” cùng một nhà Disney năm nay là Zootopia và Finding Dory. Bên cạnh đó, với một kịch bản chắc tay, có chiều sâu, hài hước được chấp bút lần cuối bởi Jared Bush, Moana đã mang lại những phút giây giải trí, ý nghĩa cho khán giả.
Mặc dù được làm theo kiểu thuần 3D nhưng một vài chi tiết nhỏ trong phim cũng đã có sự can thiệp của công đoạn vẽ tay, đó là các hình xăm trên cơ thể Maui. Phần lớn tiền cảnh trong Moana là biển, phần hậu cảnh là rừng đã được tạo nên bởi kỹ thuật đẹp xuất sắc, chân thật, sống động.
Phim kể về chuyến hành trình của cô gái trẻ Moana trong lần đầu tiên ra khơi và đương đầu thử thách. Bên cạnh bạn đồng hành là á thần Maui cùng chú gà Hei Hei, cô nắm trong mình sứ mệnh giải cứu dân làng khỏi bóng đen hắc ám. Trên trang Rotten Tomatoes, Moana cũng nhận được những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình với số điểm 7,9/10. Moana nhận được những lời tán tụng nhiều vô kể thì lời chỉ trích cũng lắm. Hầu hết ý kiến trái chiều thường nhắm vào việc bộ phim đã làm mờ đi vai trò thần thánh của á thần Maui mà đề cao vai trò “nữ thần” Moana một cách miễn cưỡng, không tự nhiên…
Đây cũng phim thứ ba của hãng Walt Disney được lồng thêm tiếng địa phương (Tahiti), hai trường hợp trước đó là Vua sư tử (ra mắt năm 1994) được lồng thêm tiếng Zulu ở Nam Phi, và Hoa Mộc Lan (1998) được lồng thêm tiếng Quan Thoại. Do đó phần đối thoại của các nhân vật trong Moana khá đặc biệt, mang đặc trưng của những hòn đảo ngoài khơi xa.
3. The Red Turtle (Ghibli - Wild Bunch)
|
Bộ phim được đạo diễn bởi Michaël Dudok de Wit, vốn nổi tiếng với tác phẩm phim ngắn đoạt giải Oscar là Father and Daughter (2000). Phim kể về cuộc sống của chàng thủy thủ bị trôi dạt vào một hòn đảo và cố gắng thoát khỏi đó trên những chiếc bè nhưng lại liên tục bị một con rùa đỏ phá hỏng. The Red Turtle sở hữu một kịch bản chắc tay, nội dung phim cảm động, sâu sắc và khơi gợi được những rung cảm sâu thẳm trong tâm hồn con người.
Nội dung phim The Red Turtle không dễ xem, muốn giải mã nội dung phim trước hết phải giải mã các biểu tượng. Kỹ thuật vẽ tay cũng như cách phối màu trong The Red Turtle là vô cùng phức tạp, chi tiết. Dudok de Wit đã dành ra hàng tháng trời sống tại một hòn đảo nhỏ thuộc các quần đảo xinh đẹp của Seychelles (Ấn Độ dương), chụp hàng ngàn bức ảnh bắt lấy những góc độ chi tiết nhất của thiên nhiên và con người. Đó là nguồn tài liệu vô giá cho các họa sĩ đến từ studio Prima Linea và đội ngũ thực hiện của The Red Turtle.
Một bất lợi không gọi là nhỏ của The Red Turtle là không hoạt náo và thu hút như Zootopia, Moana và Kubo and the Two Strings về xây dựng các tuyến nhân vật. Nhưng bù lại, phim là một câu chuyện sâu sắc, đẹp mê li được tạo nên bởi nét vẽ chi tiết, màu sắc tự nhiên, hài hòa cùng phần âm nhạc du dương, trữ tình sâu lắng. Những điều đó cũng góp phần làm cho The Red Turtle tỏa sáng trên đường đến với tượng vàng Oscar.
4. Kubo and the Two Strings (Laika)
|
Được đề cử ở hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất, đồng thời là phim hoạt hình duy nhất trong 5 phim được đề cử ở hạng mục Kỹ xảo xuất sắc nhất, Kubo and the Two Strings là phim có cách tạo hình nhân vật đẹp và vô cùng độc đáo. Đề cử Kỹ xảo xuất sắc nhất đã đánh dấu cột mốc đáng nhớ của hãng Laika khi Kubo and the Two Strings là phim hoạt hình duy nhất trong vòng 23 năm trở lại đây được gọi tên ở hạng mục này.
Phim kể về câu chuyện của Kubo, một cậu bé thông minh với tài kể chuyện độc đáo. Cuộc sống lặng lẽ của Kubo cùng người mẹ kém minh mẫn của mình bị phá vỡ khi cậu vô tình bị hai nữ sát thủ truy đuổi. Với nhiệm vụ bảo vệ mạng sống cho bản thân, đồng thời mở khóa những bí ẩn về gia đình mình trong quá khứ, Kubo đã bước vào một cuộc phiêu lưu ly kỳ nhưng không kém phần nguy hiểm.
Kubo and the Two Strings không chỉ sáng tạo trong kịch bản mà còn trong các công đoạn tạo hình nhân vật, thiết kế trang phục, xây dựng các mô hình quái vật... Những công đoạn này chiếm một thời lượng rất lớn trong việc sản xuất phim. Việc này đòi hỏi một đội ngũ nhân viên lớn không kém và phải làm việc liên tục.
Hầu hết các nhân vật trong Kubo and the Two Strings đều nổi bật không chỉ về hành động mà còn về tính cách. Trong 5 phim, chỉ có duy nhất Kubo and the Two Strings là phim có sự kết hợp của cả hai kiểu làm phim đó là stop-motion và đồ họa máy tính VFX. Việc chen chân giữa hai kiểu làm phim này đã giúp cho bộ phim đột phá về mặt hình ảnh.
5. My Life as a Zucchini (Indie Sales - iS)
|
Là một cái tên khá lạ lẫm đối với khán giả Việt Nam, My Life as a Zucchini dường như không được biết đến “rầm rộ” như 4 đối thủ khác của mình. Bộ phim được chuyển thể từ quyển sách mang tên Autobiographie d’une courgette, kể về cuộc sống của cậu bé Zucchini tại ngôi nhà tình thương sau khi mẹ cậu qua đời.
Kỹ thuật làm phim My Life as a Zucchini thuần theo kiểu stop-motion. Bộ phim không quá công phu trong tạo hình nhân vật, cũng không quá sinh động hay vui nhộn, mà lại tập trung vào những góc khuất lắng đọng trong tâm hồn trẻ thơ và làm bật lên những câu hỏi đáng suy ngẫm đối với người xem.
Đạo diễn bởi Claude Barras, My life is a Courgette đã chiến thắng nhiều giải thưởng lớn nhỏ trên thế giới. Phim nhận được vô số lời khen ngợi từ các nhà phê bình với 8/10 điểm trên trang Rotten Tomatoes, tuy nhiên doanh thu phòng vé khá ảm đạm với 3,9 triệu USD, thua cả kinh phí sản xuất là 8 triệu USD.
Lễ trao giải Oscar lần thứ 89 sẽ diễn ra vào ngày 26.2 tới tại Nhà hát Dolby ở Hollywood, California, Mỹ.
Bình luận (0)