Hải sâm - vị thuốc quý trong "tứ đại danh thái"
Hải sâm có tên khoa học là Stichopus japonicus selenka, là một loại động vật không xương sống, sống ở biển, trên đáy cát hoặc san hô chết, tập trung nhiều nhất ở độ sâu 2-5m, hay gặp ở vùng vịnh và những nơi có nhiều đá ngầm. Hải sâm phân bố ở vùng biển Đông châu Phi, Đông Ấn Độ, Tây và Nam Thái Bình Dương. Ở nước ta, có khá nhiều ở vùng biển Khánh Hòa (Hòn Khói, Hòn Đôi, Hòn Tai, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Miễu...), đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu...
Theo y học cổ truyền, hải sâm vị mặn, tính ấm, vào được kinh Tâm, Tỳ, Thận và Phế, có công dụng bổ thận ích tinh, dưỡng huyết nhuận táo, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như tinh huyết hao tổn, hư nhược, liệt dương, di tinh, mộng tinh, tiểu tiện nhiều lần, táo bón... Các y thư cổ như Bản thảo tùng tân, Bản thảo nhiếp yếu, Bản thảo cầu nguyên, Dược tính khảo, Cương mục thập di, Tùy tức cư ẩm thực phổ, Dược tính chỉ nam... đều đã nói đến hải sâm với những kiến giải khá sâu sắc. Ví như sách Dược tính chỉ nam đã viết: "Hải sâm bổ được thận kinh, ích được tinh tủy, tiêu được đờm dãi, giữ gìn điều nhiếp được tiểu tiện, có tính tráng dương đạo, sát được trùng, chữa được những chứng lở có sâu, lại giáng được hỏa, bổ ích cho thận, thông lợi được tràng vị, nhuận được chỗ táo kết, chữa được mọi chứng hư lao, ốm yếu gầy còm".
Tựu trung lại, theo quan điểm của y học cổ truyền, hải sâm có công dụng khá phong phú: (1) Bổ ích cường tráng, đặc biệt tốt đối với các trường hợp tinh huyết hư tổn. (2) Bổ thận điền tinh, thích hợp với các trường hợp di tinh, liệt dương, tiểu tiện nhiều lần về đêm. (3) Tư âm nhuận táo, dùng rất tốt cho những người bị táo bón, tiêu khát (tiểu đường). (4) Lợi niệu thoái hoàng, thích hợp cho những trường hợp bị phù thũng nguyên nhân do thận và bệnh lý vàng da do các nguyên nhân khác nhau. (5) Bổ huyết, thường dùng cho các trường hợp thiếu máu. (6) Kháng ung, thường dùng để điều trị hỗ trợ cho các trường hợp ung thư.
Bởi vậy, từ xa xưa, hải sâm đã được coi là một trong "tứ đại danh thái" (bốn loại thực phẩm nổi tiếng) cùng với óc khỉ, tay gấu và yến sào của ẩm thực cổ truyền phương Đông và được mệnh danh là "nhân sâm của biển cả". Về mặt thực phẩm, nhiều y gia coi thịt hải sâm là một trong tám món ăn “cao lương mỹ vị” nổi tiếng (bát trân) của phương Đông cùng với yến sào, bào ngư, vây cá...
Nghiên cứu về hải sâm của y học hiện đại
Theo kết quả nghiên cứu của dinh dưỡng học hiện đại, hải sâm là một trong những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng hết sức phong phú. Các nhà khoa học Trung Quốc ước tính cứ 100g hải sâm khô có chứa 75,6g protein, cao gấp 5 lần so với thịt lợn nạc và 3,5 lần so với thịt bò, chỉ số này ở hải sâm Việt Nam là 63,23-67,22g. Trong hải sâm còn có hàm lượng cao các acid amin quý như lysine, proline, arginine, histadine, acid glutamic, thionine, leucine, isoleucine, acid aspartic, tyrosine... và nhiều nguyên tố vi lượng như P, Cu, Fe, Mn, Zn..., đặc biệt là Se - một chất giải độc kỳ diệu, làm vô hiệu hóa các kim loại nặng đi vào cơ thể qua đường ăn uống như Pb, Hg để thải ra nước tiểu. Ngoài ra, trong thành phần hải sâm còn có các loại vitamine như B1, B2, B12, C..., hormone testosteron và progesteron, các chất có hoạt tính sinh học như lectin, saponin glucoside (các glucoside triterpen), trong đó có 2 loại saponin là Rg (gây hưng phấn thần kinh, chống mỏi mệt và tăng cường thể lực) và Rh (có tác dụng ức chế tế bào ung thư).
Kết quả nghiên cứu dược lý học hiện đại cho thấy, hải sâm có tác dụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, ức chế quá trình sinh trưởng và di căn của các tế bào ung thư; Chống mệt mỏi cơ bắp, duy trì trạng thái hoạt động cao; Chống lão hóa; Tăng cường hoạt động của thần kinh và tăng phản xạ, ổn định tâm lý; bổ sung các yếu tố tạo máu, tăng tuần hoàn máu, cải thiện khả năng hấp thu oxy và chống mệt mỏi cơ tim; Xúc tác các phản ứng enzyme, thúc đẩy quá trình chuyển hóa và hấp thu, tăng sinh tổng hợp protein. Hơn nữa, do chứa rất ít lipid (1,35-3,05%) và hầu như không có cholesterol nên hải sâm là loại thực phẩm bồi bổ lý tưởng cho những người bị rối loạn lipid máu và bị các bệnh lý động mạch vành tim.
Hải sâm và những bài thuốc phối hợp
Để đạt được mục đích vừa làm thực phẩm bổ dưỡng, vừa làm thuốc chữa bệnh, người ta thường phối hợp dùng hải sâm với một số thực phẩm hoặc vị thuốc khác chế biến thành các món ăn - bài thuốc rất độc đáo. Ví dụ như, để chữa viêm loét dạ dày tá tràng, dùng ruột hải sâm để trên ngói đất, sấy thật khô rồi nghiền thành bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 0,5-1g.
Chữa đái tháo đường, dùng hải sâm 2 con, trứng gà 1 quả, tụy lợn 1 cái, ba thứ đem hấp chín rồi ăn, cách 1 ngày dùng 1 lần.
Chữa thiếu máu, dùng hải sâm và đại táo (bỏ hạt) lượng bằng nhau, đem sấy khô rồi tán thành bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 9g với nước ấm hoặc dùng hải sâm 1 con đem hầm với mộc nhĩ lượng vừa đủ và một chút đường phèn, ăn trong ngày.
Chữa ho ra máu do lao phổi, dùng hải sâm 500g, bạch cập 250g, quy bản 120g, ba thứ sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15g với nước ấm.
Chữa suy nhược thần kinh do thận hư (đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, mất ngủ, di tinh, xuất tinh sớm), dùng hải sâm 30g ninh với gạo nếp 100g thành cháo, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Để chữa cao huyết áp và vữa xơ động mạch, dùng hải sâm 50g hầm nhừ, chế thêm một chút đường phèn, ăn trong ngày.
Chữa chứng táo bón do âm hư, dùng hải sâm 30g, đại tràng lợn 120g làm sạch, mộc nhĩ đen 15g, ba thứ đem hầm nhừ, chế thêm gia vị, ăn liên tục trong nhiều ngày.
Chữa chứng đau lưng và suy giảm trí nhớ do thận hư, dùng hải sâm 30g, xương sống lợn 60g, hạch đào nhân 15g, ba thứ làm sạch, hầm nhừ, chế đủ gia vị, ăn trong nhiều ngày.
Chữa chứng dương nuy (liệt dương), dùng hải sâm 20g hầm với thịt dê 100g, ăn trong ngày; Chữa liệt dương, di tinh, tinh lạnh do thận hư, dùng hải sâm 480g (sao thơm), hạch đào nhân 100 hạt, thận dê 4-6 đôi, đỗ trọng 240g, thỏ ti tử 240g, ba kích 124g (sao với nước cam thảo), kỷ tử 120g, lộc giác giao 120g, bổ cốt chi 120g (sao muối), đương quy 120g, ngưu tất 120g (sao dấm), quy bản 120g (sao dấm), tất cả sấy khô, tán thành bột rồi luyện với mật ong làm thành viên hoàn, mỗi viên nặng chừng 9g, mỗi ngày ăn 3 lần, mỗi lần 3 viên.
Để chữa động kinh, dùng nội tạng hải sâm sấy khô, nghiền thành bột, mỗi lần uống 12g với rượu vàng, liên tục trong nhiều ngày.
Chữa trĩ xuất huyết, dùng hải sâm lượng vừa đủ đem đốt tồn tính, mỗi lần dùng 1,5g hòa với a giao 6g trong nước sôi cho tan rồi uống, mỗi ngày uống 3 lần.
Theo SK&ĐS
Bình luận (0)