Quy định mới về bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư 49/2024/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 11/2022/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng. Theo đó, Thông tư 49/2024/TT-NHNN đã sửa đổi, bổ sung quy định về bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai.
Cụ thể, Thông tư 49/2024/TT-NHNN quy định, ngân hàng thương mại (NHTM), chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư khi: chủ đầu tư đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại điều 11 Thông tư 11/2022/TT-NHNN (trừ trường hợp NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh cho chủ đầu tư trên cơ sở bảo lãnh đối ứng). Chủ đầu tư đã nhận được văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản cấp tỉnh trả lời cho chủ đầu tư về nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua.
Về trình tự thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai, Thông tư 49/2024/TT-NHNN nêu rõ, căn cứ đề nghị của chủ đầu tư hoặc bên bảo lãnh đối ứng, NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, thẩm định và quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư. Bên bảo lãnh và chủ đầu tư ký thỏa thuận cấp bảo lãnh theo quy định tại điều 26 luật Kinh doanh bất động sản và quy định tại khoản 12 điều 3, điều 15 Thông tư 11/2022/TT-NHNN.
Căn cứ thỏa thuận cấp bảo lãnh đã ký, bên bảo lãnh phát hành văn bản cam kết phát hành thư bảo lãnh cho chủ đầu tư để chủ đầu tư gửi bản sao cho bên mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua nhà ở. Sau khi ký hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, trong đó có quy định nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư, chủ đầu tư gửi hợp đồng mua, thuê mua nhà ở cho bên bảo lãnh để đề nghị bên bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh cho bên mua. Bên bảo lãnh căn cứ hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, thỏa thuận cấp bảo lãnh và văn bản cam kết phát hành thư bảo lãnh để phát hành thư bảo lãnh và gửi cho chủ đầu tư để cung cấp thư bảo lãnh cho bên mua.
Thông tư 49/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 10.12.2024.
Tài khoản mạng xã hội phải xác thực mới được đăng thông tin
Chính phủ đã ban hành Nghị định 147/2024/NĐ-CP, quy định chi tiết các điều kiện đối với trang thông tin điện tử và mạng xã hội trong nước. Theo đó, tại điểm e khoản 3 điều 23 Nghị định 147/2024/NĐ-CP quy định thực hiện xác thực tài khoản của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội bằng số điện thoại di động tại Việt Nam.
Chỉ trong trường hợp người sử dụng xác nhận không có số điện thoại di động tại Việt Nam, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ mạng xã hội thực hiện xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử.
Trường hợp người sử dụng dịch vụ mạng xã hội sử dụng tính năng livestream với mục đích thương mại, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ mạng xã hội thực hiện xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử.
Người dùng mạng xã hội cần lưu ý gì từ ngày 25.12?
Nghị định 147/2024/NĐ-CP nêu rõ, chỉ những tài khoản đã xác thực bằng số điện thoại hoặc số định danh cá nhân mới được hoạt động, bao gồm đăng thông tin (viết bài, bình luận, livestream) và chia sẻ thông tin trên mạng xã hội.
Nghị định 147/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 25.12.2024 và trong vòng 90 ngày kể từ thời điểm nghị định có hiệu lực, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài cung cấp thông tin xuyên biên giới vào Việt Nam và tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trong nước phải thực hiện xác thực những tài khoản đang hoạt động của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội.
Như vậy, kể từ ngày 25.12, người dùng mạng xã hội tại Việt Nam sẽ phải xác thực tài khoản bằng số điện thoại di động. Chỉ trong trường hợp người dùng không có số điện thoại di động tại Việt Nam thì sẽ phải xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân.
Định giá dịch vụ giáo dục, đào tạo từ ngày 16.12.2024
Bộ GD-ĐT đã ban hành Thông tư 14/2024/TT-BGDĐT hướng dẫn quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật và phương pháp định giá dịch vụ giáo dục, đào tạo.
Theo Thông tư 14/2024/TT-BGDĐT, công thức xác định giá dịch vụ giáo dục, đào tạo từ ngày 16.12.2024 như sau:
Giá dịch vụ giáo dục, đào tạo = Chi phí tiền lương + Chi phí vật tư + Chi phí quản lý + Chi phí khấu hao/hao mòn tài sản cố định + Chi phí khác + Tích lũy (nếu có) hoặc lợi nhuận (nếu có).
Trong đó, chi phí tiền lương gồm các khoản tiền phải trả cho giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và người lao động trực tiếp tham gia thực hiện dịch vụ giáo dục, đào tạo gồm tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn và các chi phí khác phải chi trả theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chi phí tiền lương = Định mức lao động x Đơn giá tiền lương hoặc chi phí tiền công (đồng/giờ).
Định mức lao động xây dựng theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 7 Thông tư 14/2024/TT-BGDĐT. Đơn giá tiền lương thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành về tiền lương; chi phí tiền công hoặc các quy định về vị trí, chế độ việc làm của người lao động là chi phí phải trả cho người lao động căn cứ vào hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể.
Sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã tại nhiều tỉnh, thành
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua hàng loạt nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của các tỉnh, thành có hiệu lực từ ngày 1.12.2024.
Một số tỉnh cụ thể như Hà Nam, Bến Tre, Bình Thuận, Cà Mau, Nghệ An, Hà Tĩnh...
Đề nghị Bộ Công an xử lý việc tung tin đồn 'sáp nhập 63 còn 31 tỉnh'
Tăng tuổi nghỉ hưu với sĩ quan quân đội
Sáng 28.11.2024, Quốc hội đã thông qua luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam với 458/459 đại biểu tán thành. Luật có hiệu lực thi hành từ 1.12.2024.
Cụ thể, về tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất (tuổi nghỉ hưu) với sĩ quan theo bậc quân hàm, luật vừa được thông qua quy định tăng từ 1 đến 5 tuổi so với luật hiện hành.
Theo đó, tuổi nghỉ hưu của cấp úy là 50 tuổi, thiếu tá 52, trung tá 54, thượng tá 56, đại tá 58 và cấp tướng 60 tuổi. Khi quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức, năng lực, sức khỏe và tự nguyện, có thể được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 5 năm. Trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn theo quy định của Bộ trưởng Quốc phòng.
Bộ trưởng Quốc phòng: Nên giữ nguyên tuổi hưu 60 với sĩ quan cấp tướng
Mức tiền thưởng định kỳ hằng năm với sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư 95/2024/TT-BQP ngày 11.11.2024 hướng dẫn thực hiện chế độ tiền thưởng đối với đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng, có hiệu lực từ ngày 25.12.2024.
Theo đó, chế độ tiền thưởng định kỳ hằng năm đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng như sau:
Tiêu chí thưởng: Các đối tượng quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 2 Thông tư 95/2024/TT-BQP (sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng và công chức làm việc trong quân đội (công chức quốc phòng) và người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu tại Ban Cơ yếu Chính phủ) được hưởng chế độ tiền thưởng định kỳ hằng năm khi được cấp có thẩm quyền đánh giá kết quả, xếp loại từ mức độ hoàn thành nhiệm vụ trở lên. Việc đánh giá kết quả, xếp loại hoàn thành nhiệm vụ được thực hiện theo quy định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng.
Mức tiền thưởng: Đối với các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: năm 2024, mức thưởng bằng 4 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 8 lần mức lương cơ sở.
Đối với các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ: năm 2024, mức thưởng bằng 3,5 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 7 lần mức lương cơ sở.
Đối với các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành nhiệm vụ: năm 2024, mức thưởng bằng 1,5 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 3 lần mức lương cơ sở.
Các đối tượng quy định tại khoản 1 điều 3 Thông tư 95/2024/TT-BQP (các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan), trong năm hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ 7 tháng trở lên: mức tiền thưởng bằng 1 lần mức tiền thưởng quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 điều 3 Thông tư 95/2024/TT-BQP; trong năm hưởng lương từ ngân sách nhà nước dưới 7 tháng: mức tiền thưởng bằng 1/2 lần mức tiền thưởng quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 điều 3 Thông tư 95/2024/TT-BQP.
Bình luận (0)